Bản án 52/2019/HSST ngày 30/08/2019 về tội đánh bạc

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÙ ĐĂNG, TỈNH BÌNH PHƯỚC

BẢN ÁN 52/2019/HSST NGÀY 30/08/2019 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Ngày 30 tháng 8 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Bù Đăng, tỉnh Bình Phước, mở phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 55/2019/HSST ngày 19 tháng 7 năm 2019, Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 55/2019/QĐXXST-HS ngày 08 tháng 8 năm 2019 đối với các bị cáo:

1. Lục Thị T, sinh năm 1977 Nơi cư trú: Thôn A, xã B, huyện B, tỉnh Bình Phước; nghề nghiệp: làm rẫy; trình độ văn hóa: 5/12; dân tộc: Sán Dìu; giới tính: Nữ; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Lục Minh Q (đã chết) và bà Trương Thị L; bị cáo có chồng và 04 người con lớn nhất sinh năm 1998 và nhỏ nhất sinh năm 2012; tiền án, tiền sự: Không Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 26/4/2019 đến ngày 16/5/2019 được thay thế biện pháp ngăn chặn (Có mặt).

2. Trịnh Thị L, sinh năm 1966 Nơi cư trú: Thôn A, xã B, huyện B, tỉnh Bình Phước. nghề nghiệp: Làm rẫy; trình độ văn hóa: 02/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Trịnh B và bà Tạ Thị L (đã chết); Bị cáo có chồng và 03 người con lớn nhất sinh năm 1995, nhỏ nhất sinh năm 2001; tiền án, tiền sự: Không Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 26/4/2019 đến ngày 16/5/2019 được thay thế biện pháp ngăn chặn (Có mặt).

3. Hoàng Thị Y, sinh năm 1969 Nơi cư trú: Thôn A, xã B, huyện B, tỉnh Bình Phước; nghề nghiệp: Buôn bán; trình độ văn hóa: 7/10; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Hoàng Tấn Đ và bà Nguyễn Thị T; bị cáo có chồng và 03 người con lớn nhất sinh năm 1990, nhỏ nhất sinh năm 1998; tiền án, tiền sự: Không Nhân thân: Năm 2008 bị Tòa án nhân dân huyện BĐ xử phạt 24 tháng tù cho hưởng án treo về tội “Đánh bạc” bị cáo đã chấp hành xong toàn bộ bản án và được xóa án tích.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 26/4/2019 đến ngày 16/5/2019 được thay thế biện pháp ngăn chặn (Có mặt).

4. Nguyễn Thanh S, sinh năm 1964 Nơi cư trú: Thôn A, xã Xã B, huyện BĐ, tỉnh Bình Phước; nghề nghiệp: Buôn bán; trình độ văn hóa: 7/10; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn H và bà Trần Thị S; Bị cáo có vợ và 03 người con lớn nhất sinh năm 1990 và nhỏ nhất sinh năm 1994; tiền án, tiền sự: Không Nhân thân: Năm 2017 bị Tòa án nhân dân huyện BĐ xử phạt 20.000.000 đồng về tội “Đánh bạc” bị cáo đã chấp hành xong và đã được xóa án tích.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 26/4/2019 đến ngày 01/7/2019 được thay thế biện pháp ngăn chặn (có mặt).

5. Nguyễn Thị Đ, sinh năm 1970 Nơi cư trú: Thôn A, xã Xã B, huyện BĐ, tỉnh Bình Phước; nghề nghiệp: buôn bán; trình độ văn hóa: 4/12; dân tộc: Tày; giới tính: Nữ; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Thanh C và bà Mai Thị H; Bị cáo có chồng và 04 người con lớn nhất sinh năm 1992 và nhỏ nhất sinh năm 1996; tiền án, tiền sự: Không Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 26/4/2019 đến ngày 16/5/2019 được thay thế biện pháp ngăn chặn (Có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 10 giờ ngày 26 tháng 4 năm 2019, Nguyễn Thanh S, Trịnh Thị L, Hoàng Thị Y và Lục Thị T tới uống nước ở quán của Nguyễn Thị Đ ở Thôn A, xã Xã B, huyện BĐ, tỉnh Bình Phước. Sau đó, tất cả rủ nhau chơi đánh bạc thắng thua bằng tiền tại nhà của Đ. Do quán chật hẹp và nhiều người qua lại nên Đ chỉ S, Y, L, T vào trong phòng ngủ của Đ để đánh bạc bằng hình thức đánh “phỏm”, quy định thắng thua với số tiền ăn thua thấp nhất từ 20.000 đồng, 40.000 đồng, 60.000 đồng, 80.000 đồng đến 100.000 đồng trên 01 ván và giao ước cách chơi như sau: Sử dụng 01 bộ bài tây 52 lá chia làm 04 phần cho 04 người chơi. Trong đó 03 phần có 9 quân bài và 01 phần có 10 quân bài (gọi là tụ cái), số bài còn lại được xếp thành chồng để ở giữa 04 người chơi (còn gọi là nọc bài). Sau khi tụ cái chia bài xong thì cả 04 người tiến hành đánh bài. Về quyền đánh trước đối với ván bài đầu tiên là ngẫu nhiên còn các ván bài tiếp theo thì người nào về nhất được quyền đánh trước. Người đầu tiên chơi sẽ đánh đi một lá bài được xem là rác có trên tay mình, người kế tiếp nếu có trên tay từ 2 hoặc nhiều hơn lá bài cùng tập hợp thì có thể ăn. Nếu người kế tiếp lựa chọn không ăn lá bài từ người chơi trước thì người đó sẽ bốc 1 lá bài từ nọc bài. Lá bài được bốc thì chỉ người bốc mới biết giá trị của nó và không được cho người chơi khác thấy. Sau đó người chơi lại tiếp tục đánh đi một lá bài có trên tay của mình để người kế tiếp ăn hoặc bỏ qua. Lượt chơi cứ tiếp tục như thế cho đến lúc có một người ù (gọi là tròn bài). Ván bài kết thúc sau 4 vòng đánh nếu như không có tụ nào ù.

- Về cách tính thắng thua như sau:

+ Ù là 3 tập hợp các lá bài có cùng giá trị hoặc 03 lá bài liên tiếp nhau nhưng cùng một chất Cơ, rô, chuồn (nhép), bích.

+ Cháy là người chơi không có 1 tập hợp các lá bài có cùng giá trị hoặc 03 lá bài liên tiếp nhau nhưng cùng một chất bài (Cơ, rô, chuồn (nhép), bích).

+ Ăn chốt hạ là người chơi liền trước để người chơi liền sau ăn lá bài thứ 3.

+ Luật đền là người chơi liền trước để người chơi liền sau ăn liên tiếp 3 lá bài làm cho người ăn 3 lá bài được bài Ù thì người chơi liền trước phải đền tiền cho hai người chơi còn lại.

+ Cách tính điểm các lá bài rác: Quân bài “K” là 13 điểm; Quân bài “Q” là 12 điểm; Quân bài “J” là 11 điểm; Quân bài “A” là 1 điểm. Các quân bài 10 đến quân bài 2 thì số điểm được tính theo số tương ứng trên quân bài.

+ Người về nhất là người có số điểm thấp nhất thắng được tổng số tiền 120.000 đồng.

+ Người về nhì là người có số điểm thấp thứ hai thua số tiền 20.000 đồng.

+ Người về ba là người có số điểm thấp thứ ba thua số tiền 40.000 đồng.

+ Người về chót là người có số điểm cao nhất thua số tiền 60.000 đồng.

Ngoài ra, sau 4 vòng đánh người nào “Ù” thì những người tham gia chơi thua 100.000 đồng/người. Người chơi nào không có “phỏm” gọi là bị “cháy” thì thua số tiền là 80.000 đồng. Trong khi chơi người nào để đối phương ăn liên tiếp 03 quân bài thì thua 300.000 đồng; người nào ăn quân bài chốt hạ của tụ bài đối phương thì ăn 80.000 đồng.

- Khi tham gia đánh bạc Lê Thanh S sử dụng 165.000 đồng; Lục Thị T sử dụng 3.730.000 đồng; Trịnh Thị L sử dụng 2.750.000 đồng và Hoàng Thị Y sử dụng 900.000 đồng vào việc đánh bạc. Quá trình đánh bạc Nguyễn Thanh S ăn 3.700.000 đồng, Trịnh Thị L thua 800.000 đồng, Hoàng Thị Y thua 900.000 đồng, Lục Thị T thua 2.000.000 đồng. Sòng bài chơi đến 13 giờ cùng ngày thì bị Công an huyện BĐ bắt quả tang, thu giữ: 01 bộ bài tây 52 lá đã qua sử dụng; 1.950.000 đồng tại chiếu bạc và thu trên người của Lục Thị T 1.730.000 đồng; Nguyễn Thanh S 3.865.000 đồng. Tổng cộng 7.545.000 đồng sử dụng vào việc đánh bạc.

- Về vật chứng vụ án: 01 bộ bài Tây 52 lá đã qua sử dụng và 7.545.000 đồng, Cơ quan Đ tra đã chuyển đến Chi cục Thi hành án dân sự huyện BĐ để phục vụ việc truy tố, xét xử.

Ti bản cáo trạng số: 55/CT-VKS.BĐ ngày 19/7/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Bù Đăng truy tố các bị cáo Lục Thị T, Trịnh Thị L, Hoàng Thị Y, Nguyễn Thanh S và Nguyễn Thị Đ về tội “Đánh bạc” quy định tại Khoản 1 Đ 321 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Ti phiên tòa đại diện viện kiểm sát khẳng định nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật. Vì vậy đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên nội dung bản cáo trạng đã truy tố. Sau khi phân tích tính chất vụ án, nhân thân cũng như các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với các bị cáo đã đề nghị Hội đồng xét xử: Về tội danh đề nghị tuyên các bị cáo Lục Thị T, Trịnh Thị L, Hoàng Thị Y, Nguyễn Thanh S và Nguyễn Thị Đ phạm tội “Đánh bạc” Về hình phạt đề nghị:

- Áp dụng khoản 1, khoản 3 Điều 321, điểm i, s Khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 17, Điều 58, Điều 35 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Lục Thị T từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng.

Xử phạt bị cáo Trịnh Thị L từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng. Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Đ từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 - Áp dụng khoản 1 Điều 321, điểm s, v Khoản 1, khoản 2, Điều 51, Điều 17, Điều 58, Điều 36 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Thanh S từ 12 đến 15 tháng cải tạo không giam giữ. Áp dụng khoản 3 Điều 321 Bộ luật hình sự xử phạt bổ sung bị cáo Nguyễn Thanh S từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng.

- Áp dụng khoản 1 Điều 321, điểm s Khoản 1, khoản 2, Điều 51, Điều 17, Điều 58, Điều 36 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Hoàng Thị Y từ 12 đến 15 tháng cải tạo không giam giữ. Áp dụng khoản 3 Điều 321 Bộ luật hình sự xử phạt bổ sung bị cáo Hoàng Thị Y từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng.

Về vật chứng vụ án: Đề nghị xử lý theo quy định của pháp luật.

Về án phí: Buộc các bị cáo phải nộp theo quy định của pháp luật.

Các bị cáo Lục Thị T, Trịnh Thị L, Hoàng Thị Y, Nguyễn Thanh S và Nguyễn Thị Đ thừa nhận hành vi phạm tội như nội dung bản cáo trạng Viện kiểm sát đã truy tố, không có ý kiến tranh luận về tội danh, hình phạt và các vấn đề khác đối với đại diện Viện kiểm sát.

Lời nói sau cùng, các bị cáo hối hận về hành vi của mình và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về thủ tục tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Điều tra Công an huyện Bù Đăng, Viện kiểm sát nhân dân huyện Bù Đăng trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của các bị cáo: Vào khoảng 10 giờ 00 phút ngày 26/4/2019, Lục Thị T, Hoàng Thị Y, Trịnh Thị L và Nguyễn Thanh S đến quán nước tại nhà của Nguyễn Thị Đ thuộc Thôn A, xã Xã B, huyện BĐ, tỉnh Bình Phước để uống nước. Sau đó tất cả rủ nhau đánh bài thắng thua bằng tiền. Do quán nước của Đ chật hẹp và nhiều người qua lại nên tất cả đi vào phòng ngủ tại nhà của Đ để đánh bài dưới hình thức “đánh phỏm” thắng thua bằng tiền. Các bị cáo đã sử dụng số tiền 7.545.000 đồng vào mục đích đánh bạc.

Hi đồng xét xử xét thấy có đủ cơ sở khẳng định hành vi của Lục Thị T, Trịnh Thị L, Hoàng Thị Y, Nguyễn Thanh S và Nguyễn Thị Đ đã phạm vào tội “Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Điều 321 Bộ luật hình sự năm 2015 quy định:

“1. Người nào đánh bạc trái phép dưới bất kỳ hình thức nào được thua bằng tiền hay hiện vật trị giá từ 5.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 5.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc hành vi quy định tại Điều 322 của Bộ luật này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.”

Như vậy, nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Bù Đăng truy tố các bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Khi thực hiện hành vi phạm tội các bị cáo có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng do coi thường pháp luật nên cố ý thực hiện. Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không những xâm phạm đến trật tự công cộng và nếp sống văn minh xã hội mà còn làm ảnh hưởng đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương.

Xét toàn bộ vụ án, tính chất mức độ phạm tội của các bị cáo, Hội đồng xét xử thấy: Các bị cáo đánh bạc thuộc hình thức nhiều người cùng tham gia với nhau, tham gia với vai trò đồng phạm.

Bị cáo Nguyễn Thị Đ mặc dù không trực tiếp tham gia đánh bạc nhưng bị cáo sử dụng nhà của mình đang quản lý để cho các bị cáo đánh bạc thắng thua bằng tiền. Như vậy, bị cáo phạm tội với vai trò đồng phạm giúp sức.

Các bị cáo Nguyễn Thanh S, Hoàng Thị Y, Lục Thị T và Trịnh Thị L trực tiếp tham gia đánh bạc thắng thua bằng tiền. Vì vậy, các bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự với vai trò đồng phạm.

[3] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa tất cả các bị cáo đều thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s Khoản 1 Điều 51 Bộ Luật Hình sự 2015. Các bị cáo Lục Thị T, Trịnh Thị L và Nguyễn Thị Đ phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng nên các bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm i khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự 2015. Bị cáo Nguyễn Thanh S có thành tích trong công tác được tặng giấy khen của Ủy ban nhân dân xã Xã B là tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm v, khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự 2015. Bị cáo Lục Thị T có hoàn cảnh gia đình khó khăn, đang nuôi con nhỏ đây là các tình tiết giảm nhẹ tại khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Bị cáo S, T đều đã bị tạm giam một thời gian nên đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát về hình phạt cải tạo không giam giữ là có căn cứ. Thời gian tạm giam được trừ vào thời gian cải tạo không giam giữ. Các bị cáo S, Y có hoàn cảnh gia đình khó khăn nên được miễn trừ thu nhập.

Sau khi cân nhắc mức độ hành vi phạm tội, nhân thân của các bị cáo và tình tiết giảm nhẹ mà các bị cáo được hưởng, Hội đồng xét xử thấy cần xử các bị cáo một mức án tương xứng với hành vi phạm tội để giáo dục, răn đe bị cáo và phòng ngừa chung.

[5] Về vật chứng vụ án: Căn cứ Điều 47 Bộ Luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng Hình sự năm 2015.

Cần tịch thu tiêu hủy: 02 bộ bài Tây 52 lá đã qua sử dụng.

Cần tịch thu sung công quỹ: 7.545.000 đồng các bị cáo sử dụng vào mục đích đánh bạc.

[6] Về án phí: Buộc các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 99 của Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

Quan điểm xử lý vụ án của Đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên tòa là có căn cứ nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

[1] Về tội danh và hình phạt: Tuyên bố các bị cáo Lục Thị T, Trịnh Thị L, Nguyễn Thị Đ, Nguyễn Thanh S và Hoàng Thị Y phạm “Tội Đánh bạc”

- Áp dụng khoản 1 Điều 321, điểm i, s Khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 17, Điều 58, Điều 35 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Lục Thị T 15.000.000 đồng.

- Áp dụng khoản 1 Điều 321, điểm i, s Khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 17, Điều 58, Điều 36 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Trịnh Thị L 15.000.000 đồng. Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Đ 15.000.000 đồng.

- Áp dụng khoản 1, khoản 3 Điều 321, điểm s, v Khoản 1 Điều 51, Điều 17, Điều 58, Điều 35 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Thanh S 15 tháng cải tạo không giam giữ. Được khấu trừ đi thời hạn tạm giữ, tạm giam 02 tháng 05 ngày. Bị cáo S phải chấp hành thời hạn cải tạo không giam giữ là 08 tháng 15 ngày. Thời hạn cải tạo không giam giữ được tính từ ngày Ủy ban nhân dân xã Xã B, huyện BĐ, tỉnh Bình Phước nhận được Quyết định thi hành án và bản sao bản án. Phạt bổ sung bị cáo Nguyễn Thanh S số tiền 15.000.000 đồng.

- Áp dụng khoản 1 Điều 321, điểm s Khoản 1, Điều 51, Điều 17, Điều 58, Điều 36 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Hoàng Thị Y 12 tháng cải tạo không giam giữ. Được khấu trừ đi thời hạn tạm giữ, tạm giam 20 ngày. Bị cáo S phải chấp hành thời hạn cải tạo không giam giữ là 09 tháng. Thời hạn cải tạo không giam giữ được tính từ ngày Ủy ban nhân dân xã Xã B, huyện BĐ, tỉnh Bình Phước nhận được Quyết định thi hành án và bản sao bản án. Phạt bổ sung bị cáo Hoàng Thị Y 15.000.000 đồng.

Bị cáo Nguyễn Thanh S, Hoàng Thị Y phải thực hiện một số công việc lao động phục vụ cộng đồng trong thời gian cải tạo không giam giữ.

[2] Về vật chứng vụ án: Áp dụng Điều 47 Bộ Luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng Hình sự năm 2015:

Tuyên tịch thu tiêu hủy: 02 bộ bài tây đã qua sử dụng.

Tuyên tịch thu sung công quỹ: Số tiền 7.545.000 đồng (Theo biên bản giao nhận vật chứng vụ án số 0009XXX ngày 05/7/2019 giữ Chi cục thi hành án dân sự huyện Bù Đăng và Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Bù Đăng.)

[3] Về án phí: Áp dụng Điều 99 của Bộ luật tố tụng hình sự, Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án. Buộc các bị cáo Lục Thị T, Trịnh Thị L, Nguyễn Thị Đ, Nguyễn Thanh S và Hoàng Thị Y mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

247
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 52/2019/HSST ngày 30/08/2019 về tội đánh bạc

Số hiệu:52/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bù Đăng - Bình Phước
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/08/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về