Bản án 52/2019/HS-ST ngày 21/11/2019 về tội cố ý gây thương tích

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN QUẢNG TRẠCH, TỈNH QUẢNG BÌNH

BẢN ÁN 52/2019/HS-ST NGÀY 21/11/2019 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Ngày 21 tháng 11 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 46/2019/TLST-HS ngày 11 tháng 10 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 55/2019/QĐXXST-HS ngày 08/11/2019, đối với các bị cáo:

1. Phạm Ngọc C, sinh ngày 29/01/1984 tại xã Q, huyện Q, tỉnh Quảng Bình; Nơi cư trú: thôn H, xã Q, huyện Q, tỉnh Quảng Bình; nghề nghiệp: Lái xe; trình độ văn hóa: lớp 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; Con ông Phạm Văn C và bà Nguyễn Thị H; tiền án, tiền sự: không. Nhân thân: Ngày 12/11/2015 bị Công an huyện Quảng Trạch xử phạt hành chính số tiền 750.000 đồng về hành vi đánh nhau. Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú” từ ngày 25/7/2019 đến nay. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

2. Nguyễn Hoàng A, sinh ngày 01/5/1985 tại: xã Q, huyện Q, tỉnh Quảng Bình; Nơi cư trú: thôn H, xã Q, huyện Q, tỉnh Quảng Bình; nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ văn hóa: lớp 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Văn A và bà Tưởng Thị H; có vợ: Phạm Thị D và 03 con: lớn nhất 10 tuổi, nhỏ nhất 2 tuổi; tiền án, tiền sự: không; Nhân thân: Ngày 24/10/2006 bị Tòa án huyện Quảng Trạch, Quảng Bình xử phạt 15 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản theo bản án số 40/HSST; Ngày 02/02/2006 Cưỡng đoạt tài sản, bị Công an huyện Quảng Trạch xử phạt hành chính số tiền 500.000 đồng, Ngày 07/8/2008 bị Công an huyện Quảng Trạch ra quyết định xử phạt hành chính số tiền 200.000 đồng về hành vi Trộm cắp tài sản, Ngày 27/9/2013 bị Tòa án tỉnh Quảng Bình xử phạt số tiền 6.000.000 đồng về hành vi Đánh bạc theo bản án số 120/HSPT. Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú” từ ngày 25/7/2019 đến nay. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

Người bị hại:

Anh Phạm Văn Q, sinh năm 1985. Địa chỉ: thôn X, xã Q, huyện Q, tỉnh Quảng Bình, có mặt

Những người làm chứng:

Anh Phan Tuấn N, sinh năm 1975. Địa chỉ: thôn D, xã Q, huyện Q, tỉnh Quảng Bình, vắng mặt

 Anh Phạm Lê Chí C1, sinh năm 1987. Địa chỉ: Tổ dân phố 1, phường B, thị xã B, tỉnh Quảng Bình, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 21 giờ ngày 21/4/2019, Phạm Ngọc C, Nguyễn Hoàng A và anh Phạm Khắc V ngồi nhậu tại quán Nghĩa Hà sau đó có anh Phạm Văn Q đến và ngồi nhậu cùng. Quá trình ngồi nhậu, nói chuyện qua lại thì giữa Q và C xảy ra mâu thuẫn, anh C nhắc lại trước đây Q có lời lẽ thô tục và vô lễ với mình, sẵn có rượu bia trong người nên Q chửi C “đụ mạ” rồi lời qua tiếng lại, bức xúc nên C đã dùng ly thủy tinh uống bia đánh vào vùng đầu anh Q, ly thủy tinh rơi xuống sàn nhà. Lúc này anh V và anh C1 vào ôm C ra can ngăn, còn Nguyễn Hoàng A đến can ngăn Q thì Q vẫn tiếp tục có lời lẽ thô tục chửi Hoàng A, do bức xúc nên Nguyễn Hoàng A đã dùng tay phải cầm ly thủy tinh ném về phía anh Q và trúng vào vùng mặt phía bên trái của Q gây thương tích chảy máu. Thấy thế Q đứng dậy bỏ chạy ra đường Quốc lộ 1A, C chạy đuổi theo nhưng khi ra gần ngoài đường thì không đuổi nữa. Phạm Lê Chí C1 đi tìm thì phát hiện thấy anh Q đang nằm bất tỉnh ở quán Cây Dừa nên gọi cho Phạm Ngọc C và Nguyễn Hoàng A đến. Sau đó C, A, C1 gọi xe để đưa anh Q đi cấp cứu và điều trị tại bệnh viện đa khoa khu vực Bắc Quảng Bình đến ngày 29/4/2019 thì ra viện.

Tại bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 52/TGT ngày 13/6/2019 của Trung tâm giám định y khoa – Pháp y tỉnh Quảng Bình đã kết luận: tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên là 14% (mười bốn phần trăm); Về tính chất thương tích: Các thương tích trên không nguy hiểm cho tính mạng; Vật gây thương tích: Thương tích ở gò mái phải do vật tày gây ra, các thương tích còn lại do vật sắc gây ra.

Về trách nhiệm bồi thƣờng dân sự: Ngày 24/8/2019, Nguyễn Hoàng A, Phạm Ngọc C đã thỏa thuận bồi thường với người bị hại Phạm Văn Q các khoản chi phí điều trị và các khoản chi phí hợp lý khác với tổng số tiền là 20.000.000 đồng (Hai mươi triệu đồng).

Về vật chứng vụ án: Quá trình điều tra, Cơ quan điều tra đã thu giữ được các vật chứng gồm:

- 01 mãnh vỡ thủy tinh, hình cung, có hai đầu nham nhở, các bờ mép sắc cạnh, có chiều dài nhất khoảng 04 cm, chiều rộng nhất khoảng 2,5 cm.

- 01 mãnh vỡ thủy tinh, không rõ hình dạng, có các bờ mép sắc cạnh, có chiều dài nhất khoảng 4,5 cm, chiều rộng nhất khoảng 04 cm.

Tại Cáo trạng số 44/CT-VKSQT ngày 09 tháng 10 năm 2019, Viện kiểm sát nhân dân huyện Quảng Trạch đã truy tố các bị cáo Phạm Ngọc C và Nguyễn Hoàng A về tội “Cố ý gây thương tích” theo quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 134 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Quảng Trạch giữ nguyên quan điểm truy tố đối với các bị cáo theo toàn bộ nội dung bản cáo trạng, có xem xét đến các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của từng bị cáo, đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm b, s khoản 1 Điều 51; khoản 2 Điều 51; Điều 65 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Phạm Ngọc C và bị cáo Nguyễn Hoàng A mỗi bị cáo từ 24 - 30 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 48 - 60 tháng, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Về trách nhiệm bồi thường thiệt hại: không xem xét.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự, điểm a,c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 02 mảnh vỡ thủy tinh.

Tại phiên tòa, các bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội của mình, nhận thấy hành vi của mình là vi phạm pháp luật và nhất trí với tội danh, khung hình phạt, mức hình phạt mà Viện kiểm sát nhân dân huyện Quảng Trạch đã truy tố, kết tội các bị cáo, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt, xem xét tạo điều kiện cho các bị cáo được cải tạo, rèn luyện tại địa phương.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và đến tại phiên tòa các bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa các bị cáo Phạm Ngọc C và Nguyễn Hoàng A đã thừa nhận về hành vi phạm tội của mình vào ngày 21/4/2019, do bức xúc trước lời nói của anh Qnên Phạm Ngọc C đã có hành vi dùng ly thủy đánh vào vùng đầu, mặt của anh Phạm Văn Q và Nguyễn Hoàng A đã có hành vi dùng ly thủy tinh ném vào vùng đầu, mặt của anh Phạm Văn Q gây thương tích và tổn hại sức khỏe là 14%. Hành vi của các bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Cố ý gây thương tích” được quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 134 Bộ luật hình sự, với tình tiết “dùng hung khí nguy hiểm” được quy định tại điểm a khoản 1 Điều 134 Bộ luật hình sự.

[3] Xét tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân, vai trò của mỗi bị cáo, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cùng các tình tiết khác có ý nghĩa cho việc giải quyết vụ án, Hội đồng xét xử thấy rằng:

Tính chất của hành vi phạm tội mà các bị cáo đã thực hiện là nghiêm trọng, gây nguy hiểm lớn cho xã hội. Hành vi đã trực tiếp xâm phạm quyền bất khả xâm phạm về thân thể, sức khỏe, gây ảnh hưởng về tinh thần cho người bị hại, đồng thời còn xâm phạm đến trật tự an toàn xã hội nói chung, gây tâm lý bất bình trong quần chúng nhân dân. Chỉ vì lời nói của của người bị hại trong lúc ngồi uống rượu giữa các bên mà các bị cáo đã dùng ly thủy tinh đánh và ném vào vùng đầu và vùng mặt của người bị hại. Hành vi của các bị cáo đã thể hiện sự coi thường pháp luật, coi thường sức khỏe của người khác. Vì vậy, cần thiết phải xét xử bị cáo với hình phạt nghiêm, tương xứng với hậu quả, tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội mà bị cáo đã gây ra. Vụ án có hai bị cáo tham gia thực hiện hành vi phạm tội, tuy nhiên tính chất đồng phạm chỉ ở mức độ giản đơn, giữa các bị cáo không có sự tổ chức, cấu kết chặt chẽ hay phân công vai trò, vị trí cụ thể trước khi phạm tội.

Xét các bị cáo đều là người có nhân thân xấu, đối với bị cáo Nguyễn Hoàng A: Ngày 24/10/2006 bị Tòa án huyện Quảng Trạch, Quảng Bình xử phạt 15 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản theo bản án số 40/HSST; Ngày 02/02/2006 Cưỡng đoạt tài sản, bị Công an huyện Quảng Trạch xử phạt hành chính số tiền 500.000 đồng, Ngày 07/8/2008 bị Công an huyện Quảng Trạch ra quyết định xử phạt hành chính số tiền 200.000 đồng về hành vi Trộm cắp tài sản, Ngày 27/9/2013 bị Tòa án tỉnh Quảng Bình xử phạt số tiền 6.000.000 đồng về hành vi Đánh bạc theo bản án số 120/HSPT. Đối với bị cáo Phạm Ngọc C: Ngày 12/11/2015 bị Công an huyện Quảng Trạch xử phạt hành chính số tiền 750.000 đồng về hành vi đánh nhau Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt Hội đồng xét xử đã xem xét các tình tiết giảm nhẹ cho các bị cáo: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa các bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn, hối cải; các bị cáo đã tự nguyện bồi thường đầy đủ các khoản chi phí hợp lý cho người bị hại nhằm khắc phục hậu quả mà các bị cáo đã gây ra và được người bị hại viết đơn xin giảm nhẹ hình phạt, tại phiên tòa người bị hại đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho các bị cáo được hưởng án treo; nguyên nhân dẫn đến việc mâu thuẫn giữa các bị cáo và người bị hại là do người bị hại có một phần lỗi đã dùng lời lẽ thô tục xúc phạm các bị cáo trước. Đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại các điểm b, s khoản 1 Điều 51; khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự cần áp dụng cho các bị cáo.

Từ những nhận định, đánh giá nêu trên, xét thấy chưa cần thiết phải cách ly các bị cáo ra ngoài đời sống xã hội mà áp dụng khoản 1 và khoản 2 Điều 65 Bộ luật hình sự cho bị cáo Phạm Ngọc C và Nguyễn Hoàng A được cải tạo, giáo dục tại địa phương là cũng đủ nghiêm và thể hiện chính sách nhân đạo của pháp luật.

[4] Về trách nhiệm bồi thường thiệt hại: Quá trình điều tra các bị cáo và người bị hại đã thỏa thuận việc bồi thường các khoản chi phí điều trị và các khoản chi phí hợp lý khác theo yêu cầu của người bị hại anh Phạm Văn Q với tổng số tiền là 20.000.000 đồng. Đến tại phiên tòa người bị hại không có yêu cầu bồi thường gì thêm nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Về xử lý vật chứng: Vật chứng của vụ án là 02 mảnh vỡ thủy tinh là vật mà bị cáo sử dụng làm công cụ phạm tội, hiện không có giá trị sử dụng, áp dụng điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự tịch thu tiêu hủy.

[6] Về án phí: Các bị cáo Phạm Ngọc C và Nguyễn Hoàng A phải chịu tiền án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: điểm đ khoản 2 Điều 134; các điểm b, s khoản 1 Điều 51, khoản 2 Điều 51; khoản 1 và khoản 2 Điều 65 Bộ luật hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên bố: Các bị cáo Phạm Ngọc C và Nguyễn Hoàng A phạm tội “Cố ý gây thương tích”.

Xử phạt bị cáo Phạm Ngọc C 26 (hai mươi sáu) tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 52 (năm mươi hai) tháng, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (ngày 21/11/2019).

Xử phạt bị cáo Nguyễn Hoàng A 26 (hai mươi sáu) tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 52 (năm mươi hai) tháng, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (ngày 21/11/2019).

Giao bị cáo Phạm Ngọc C và Nguyễn Hoàng A cho Ủy ban nhân dân xã Q, huyện Q, tỉnh Quảng Bình phối hợp với gia đình của bị cáo giám sát, giáo dục bị cáo trong thời gian thử thách của án treo.

Trong trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo pháp luật về thi hành án hình sự.

“Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo”.

Về trách nhiệm bồi thường thiệt hại: Không xem xét.

Về xử lý vật chứng: Tuyên tịch thu tiêu hủy 02 mảnh vỡ thủy tinh có đặc điểm được mô tả cụ thể tại Biên bản giao nhận vật chứng giữa cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Quảng Trạch với Chi cục Thi hành án dân sự huyện Quảng Trạch ngày 14/10/2019.

Về án phí: Buộc các bị cáo Phạm Ngọc C và Nguyễn Hoàng A mỗi phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm để sung vào công quỹ nhà nước.

Bị cáo, người bị hại có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (ngày 21/11/2019).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

187
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 52/2019/HS-ST ngày 21/11/2019 về tội cố ý gây thương tích

Số hiệu:52/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Quảng Trạch - Quảng Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về