TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHÂU THÀNH – TỈNH BẾN TRE
BẢN ÁN 52/2019/HNGĐ-ST NGÀY 10/10/2019 VỀ LY HÔN GIỮA CHỊ T VÀ ANH N
Ngày 10 tháng 10 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình sơ thẩm thụ lý số: 566/2019/TLST-HNGĐ ngày 03 tháng 9 năm 2019 về việc ly hôn, tranh chấp về nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 51/2019/QĐXX-ST ngày 23 tháng 9 năm 2019 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Chị Huỳnh Thị Như T, sinh năm 1986;
Nơi cư trú: Khóm 2, phường X, thị xã Giá Rai, tỉnh Bạc Liêu.
2. Bị đơn: Anh Trần Văn N, sinh năm 1986;
Nơi cư trú: 87, ấp P, xã T, huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre.
Chị T và anh N có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện, các biên bản làm việc trong quá trình tố tụng tại Tòa án và tại phiên tòa sơ thẩm, nguyên đơn chị Huỳnh Thị Như T trình bày:
Về hôn nhân: Chị và anh Trần Văn N kết hôn vào năm 2009, hôn nhân do anh chị tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường X, thị xã Giá Rai, tỉnh Bạc Liêu vào ngày 09/10/2009. Sau khi kết hôn, vợ chồng sống cùng nhà với cha mẹ ruột của chị ở thị xã Giá Rai, tỉnh Bạc Liêu. Thời gian đầu, vợ chồng chung sống hạnh phúc đến năm 2013 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do anh N cờ bạc, không lo cho gia đình. Vợ chồng đã sống ly thân từ năm 2017 đến nay. Nay tình cảm vợ chồng giữa chị với anh N không còn nên chị yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh N.
Về con chung: có 02 con chung là Trần Khánh T, sinh ngày 06/9/2009 và Trần Khánh V, sinh ngày 10/8/2013, cả 02 con chung hiện nay đang sống với chị. Sau khi ly hôn, chị yêu cầu được tiếp tục nuôi 02 con chung và không yêu cầu anh N cấp dưỡng nuôi con. Công việc hiện nay của chị là buôn bán, thu nhập ổn định khoảng 08 đến 10 triệu đồng/tháng nên đủ khả năng để lo cho con. Từ khi sinh ra đến giờ, 02 con sống cùng chị và cha mẹ chị nên chị không đồng ý giao con cho anh N nuôi dưỡng, tránh việc xáo trộn cuộc sống hiện nay của 02 con.
Về tài sản chung và nợ chung: không có.
Theo các lời khai trong quá trình tố tụng tại Tòa án và tại phiên tòa sơ thẩm, bị đơn anh Trần Văn N trình bày:
Về hôn nhân: Anh thừa nhận thời gian anh và chị Huỳnh Thị Như T kết hôn, thời gian chung sống và nguyên nhân xảy ra mâu thuẫn như chị T trình bày là đúng. Anh và chị T có quá nhiều mâu thuẫn nên không thể tiếp tục chung sống hạnh phúc được nữa. Anh chị cũng đã ly thân từ năm 2017 đến nay. Nay chị T xin ly hôn thì anh cũng đồng ý.
Về con chung: có 02 con chung là Trần Khánh T, sinh ngày 06/9/2009 và Trần Khánh V, sinh ngày 10/8/2013. Hiện nay con chung đang sống với chị T. Sau khi ly hôn, anh yêu cầu được nuôi con là Trần Khánh T, chị Thảo nuôi con là Trần Khánh V. Hai bên khỏi cấp dưỡng nuôi con cho nhau.
Thời gian đầu ly thân, anh vẫn sống gần nhà chị T nên sáng nào cũng đến đưa rước 02 con đi học, khoảng 01 năm nay anh về Bến Tre nên anh chỉ đến thăm con khoảng 02-03 lần. Trước đây, do công việc chưa ổn định nên anh không có phụ tiền để chị Thảo nuôi con, khoảng 3-4 tháng nay anh đi làm nên có thu nhập và có phụ tiền nuôi con với chị T. Thu nhập bình quân của anh hiện nay khoảng 6.000.000đồng/tháng.
Về tài sản chung và nợ chung: không có.
Tại phiên tòa sơ thẩm Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành phát biểu ý kiến: Về tố tụng: trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, thư ký và người tham gia tố tụng đã tuân thủ theo quy định của pháp luật. Về nội dung: Chị T và anh N ly thân từ năm 2017 đến nay. Đây là khoảng thời gian dài nhưng anh chị vẫn không tìm được phương án hàn gắn tình cảm vợ chồng và cả hai cùng xác định không thể hàn gắn được nữa nên căn cứ Điều 55 Luật Hôn nhân và gia đình đề nghị Tòa án công nhận cho chị T và anh N thuận tình ly hôn. Về con chung, có 02 con chung là Trần Khánh T, sinh ngày 06/9/2009 và Trần Khánh V, sinh ngày 10/8/2013, chị T và anh N cùng có yêu cầu được nuôi con chung là Khánh T; cả hai con chung đang sống chung với chị T và cháu T cũng có nguyện vọng sống cùng chị T nên đề nghị Tòa chấp nhận yêu cầu nuôi con của chị T; chị T không yêu cầu anh N cấp dưỡng nuôi con nên đề nghị Tòa ghi nhận. Về tài sản chung và nợ chung cả hai cùng khai không có nên đề nghị Tòa ghi nhận.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được xem xét tại phiên Tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về hôn nhân: Chị Huỳnh Thị Như T và anh Trần Văn N kết hôn vào năm 2009, hôn nhân do anh chị tự nguyện có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường X, thị xã Giá Rai, tỉnh Bạc Liêu vào ngày 09/10/2009 nên hôn nhân của anh chị là hôn nhân hợp pháp. Sau một thời gian chung sống, chị T và anh N phát sinh mâu thuẫn; nguyên nhân là do anh N cờ bạc, không lo cho gia đình, hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài. Từ năm 2017 đến nay, hai bên đã sống ly thân. Nay chị T và anh N cùng xác định tình cảm vợ chồng không còn nên đều đồng ý ly hôn. Do đó, có căn cứ công nhận cho chị T và anh N thuận tình ly hôn theo quy định tại Điều 55 Luật Hôn nhân và gia đình.
[2] Về con chung: Chị T và anh N có 02 con chung là Trần Khánh T, sinh ngày 06/9/2009 và Trần Khánh V, sinh ngày 10/8/2013. Hiện nay hai con đang sống với chị T. Chị T yêu cầu được nuôi 02 con, anh N yêu cầu được nuôi con chung là Khánh T. Xét thấy, chị T và anh N đều có nghề nghiệp, thu nhập ổn định nên cả hai đều có điều kiện để nuôi con. Tuy nhiên, 02 con chung hiện nay đang sống với chị T, trong thời gian nuôi con vừa qua, chị T vẫn đảm bảo được việc nuôi dạy con tốt và vẫn đảm bảo quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con của anh N; tại biên bản lấy ý kiến của Tòa án thì cháu T có nguyện vọng được sống cùng chị T. Do đó, để đảm bảo quyền lợi về mọi mặt cho 02 con chung và không làm xáo trộn cuộc sống hiện nay của các cháu, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu nuôi con của chị T, giao cho chị T trực tiếp nuôi 02 con chung là phù hợp theo Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình. Ghi nhận việc chị T không yêu cầu anh N cấp dưỡng nuôi con.
[3] Về tài sản chung và nợ chung: Chị T và anh N cùng khai là không có nên Tòa án không xem xét.
[4] Về án phí: Chị T phải chịu án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm là 300.000đồng.
[5] Từ những nhận định nêu trên, xét đề nghị của Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành là có căn cứ nên được chấp nhận toàn bộ.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Áp dụng các Điều 55, 58, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và gia đình; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án;
Tuyên xử:
1. Về hôn nhân: Cho chị Huỳnh Thị Như T ly hôn với anh Trần Văn N.
2. Về con chung: Giao 02 con chung là Trần Khánh T, sinh ngày 06/9/2009 và Trần Khánh V, sinh ngày 10/8/2013 cho chị T trực tiếp nuôi dưỡng; ghi nhận việc chị T không yêu cầu anh N cấp dưỡng nuôi con.
Anh N có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con mà không ai được cản trở. Trong trường hợp có yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức theo quy định của pháp luật, Tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con cũng như cấp dưỡng nuôi con.
3. Về tài sản chung và nợ chung: Chị T và anh N cùng khai là không có nên Tòa án không xem xét.
4. Về án phí: Chị T phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm là 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí mà chị T đã nộp là 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0004792 ngày 29/8/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Châu Thành.
Đương sự đã nộp đủ án phí.
Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án 52/2019/HNGĐ-ST ngày 10/10/2019 về ly hôn giữa chị T và anh N
Số hiệu: | 52/2019/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Châu Thành - Bến Tre |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 10/10/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về