Bản án 52/2018/HS-ST ngày 27/06/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HOẰNG HÓA, TỈNH THANH HÓA

BẢN ÁN 52/2018/HS-ST NGÀY 27/06/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 27 tháng 6 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Hoằng Hóa tỉnh Thanh Hóa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 50/2018/TLST-HS ngày 07 tháng 6 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 70/2018/QĐXXST-HS ngày 15 tháng 6 năm 2018 đối với bị cáo:

Đinh Văn D, sinh ngày 07/7/1988 tại xã Hoằng P, huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa; nơi cư trú: Phố P, thị trấn B, huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 9/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt nam; con ông Đinh Văn D (đã chết) và bà Lê Thị L, sinh năm 1960; có vợ là Nguyễn Thị Mộng T, sinh năm 1988; có 01 con sinh năm 2012; Tiền án: không; tiền sự: không; bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 09/01/2018 cho đến nay. Có mặt tại phiên tòa.

Người làm chứng: Ông Lê Văn H, . Vắng mặt.

Địa chỉ: Phố V, thị trấn B, huyện Hoằng Hóa, Thanh Hóa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nhận được tin báo của quần chúng nhân dân, khoảng 15 giờ ngày 09/01/2018, tại khu vực phòng trọ của ông Lê Đình H, Công an huyện Hoằng Hóa kiểm tra và bắt quả tang Đinh Văn D có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, thu giữ trên tay trái của D 02 gói nil on kích thước mỗi gói 1,5 x 1,5 cm bên trong chứa các hạt tinh thể màu trắng và thu 01 chiếc điện thoại Nokia 230 màu ghi đen đã qua sử dụng trong túi quần bên phải của D. D khai đã mua số ma túy trên của Lê Xuân H, tuy nhiên tại phiên tòa D khai do đây là lần đầu mua ma túy của H qua sự giới thiệu của bạn bè nên D không xác định người bán ma túy cho D có phải là H hay không, D không nhớ rõ mặt.

Tại kết luận giám định số 261/PC54-MT ngày 14/01/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự

Công an tỉnh Thanh Hóa kết luận:

Các hạt tinh thể màu trắng của phong bì niêm phong gửi giám định là ma túy; có tổng khối lượng 0,476 gam loại Methamphetamine;

Toàn bộ số ma túy cơ quan điều tra đã thu giữ niêm phong còn lại sau giám định hiện đang được thu giữ tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Hoằng Hóa.

Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Đinh Văn D khai nhận toàn bộ hành vi đúng như nêu trên, phù hợp với tài liệu chứng cứ và lời khai của người làm chứng có trong hồ sơ vụ án.

Bản cáo trạng số 60/CTr-VKSHH ngày 05/6/2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Hoằng Hóa truy tố bị cáo Đinh Văn D về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận vẫn giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo Đinh Văn D. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật hình sự 2015, xét xử bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” với mức hình phạt từ 18 tháng đến 24 tháng tù.

Về xử lý vật chứng: Đề nghị áp dụng Điều 47 của Bộ luật hình sự 2015, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại sau giám định.

Đề nghị trả lại cho bị cáo D chiếc điện thoại Nokia màu đen đã qua sử dụng, không hoạt động không phải là vật dùng vào việc phạm tội.

Về án phí: Đề nghị buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo luật định.

Tại lời nói sau cùng, bị cáo Đinh Văn D trình bày: Do nghiện ngập nên bị cáo phạm tội, xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

 [1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Hoằng Hóa, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Hoằng Hóa, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

 [2] Đối với hành vi của bị cáo Đinh Văn D là người có đầy đủ năng lực hành vi dân sự, ngày 09/01/2018 đã tàng trữ trái phép chất ma túy được giám định với tổng khối lượng là 0,476 gam loại Methamphetamine. Bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi của mình như trên, phù hợp với lời khai của các người làm chứng và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Vì vậy, đủ cơ sở kết luận hành vi thực hiện tội phạm của bị cáo Đinh Văn D đã đủ yếu tố cấu thành tội phạm của tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm, hình phạt được quy định và trừng trị tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015.

 [3] Xét tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi: Hành vi của bị cáo Đinh Văn D đã xâm phạm quy định của Nhà nước về chế độ quản lý các chất ma túy, xâm phạm đến trật tự trị an, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến trật tự an toàn xã hội, hành vi đó là nguy hiểm cho xã hội, cũng là một trong những nguyên nhân làm phát sinh các tệ nạn xã hội và các loại tội phạm khác. Do đó cần phải xử lý nghiêm, có hình phạt phù hợp nhằm giáo dục bị cáo, giáo dục chung cho xã hội.

 [4] Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015.

Về nhân thân: Tháng 5/2007, bị cáo D bị Tòa án nhân dân huyện L, tỉnh Đồng Nai xử phạt 04 tháng 08 ngày tù về tội “Trộm cắp tài sản” với giá trị trộm cắp là 720.000 đồng (Bảy trăm hai mươi nghìn đồng). Tuy nhiên do sự thay đổi của chính sách pháp luật hình sự nên từ ngày 19/6/2012 đến nay không quy định hành vi Trộm cắp tài sản của D là tội phạm (giá trị chiếm đoạt dưới 2.000.000 đồng); hơn nữa dù D chưa thi hành án xong nhưng căn cứ vào Nghị quyết 33/2009/QH12 ngày 19/6/2012, điểm b khoản 1, điểm g khoản 2 Điều 2 Nghị quyết 41/2017- QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc hội, khoản 2 Điều 3 Nghị quyết 01/2016/NQ-HĐTP ngày 30/6/2016 của HĐTP TANDTC, quy định trường hợp người đã bị kết án chưa chấp hành hình phạt (theo luật hiện hành hành vi đã bị kết án trước đây chưa cấu thành tội phạm) thì sẽ được miễn chấp hành hình phạt và đương nhiên được xóa án tích

 [5] Về hình phạt bổ sung: Do bị cáo không có tài sản riêng, không có nghề nghiệp ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[6] Về vật chứng: Chất ma túy là vật cấm tự do lưu hành nên cần tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại sau giám định.

Đối với vật chứng là chiếc điện thoại di động Nokia 230 màu đen không dùng vào việc phạm tội nên trả lại cho bị cáo;

Bị cáo D khai mua số ma túy trên của Lê Xuân H nhưng tại phiên tòa bị cáo khai bạn giới thiệu cho số điện thoại của người tên H bán ma túy, bị cáo không nhớ rõ mặt người bán ma túy cho mình, không xác định có phải đó là anh H không, quá trình điều tra không đủ cơ sở để chứng minh H bán trái phép chất ma túy cho D nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Về án phí: Bị cáo bị kết án nên phải chịu án phí hình sự theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Tuyên bố bị cáo Đinh Văn D phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy.

Xử phạt bị cáo Đinh Văn D 15 (mười lăm) tháng tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị tạm giữ, tạm giam ngày 09/01/2018.

Về vật chứng: Căn cứ Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015;

- Tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại sau giám định trong phong bì niêm phong số 261/MT-PC54.

- Trả lại chiếc điện thoại Nokia màu đen, đã qua sử dụng cho bị cáo Đinh Văn D.

Số vật chứng trên hiện đang lưu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hoằng Hóa theo biên bản giao nhận vật chứng số 64/BBGN ngày 25/6/2018

Về án phí: Áp dụng khoản 1 Điều 135; Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình 2015; Điều 21, khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/UBVQH ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo Đinh Văn D phải chịu 200.000đ tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

197
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 52/2018/HS-ST ngày 27/06/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:52/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hoằng Hóa - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/06/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về