Bản án 52/2018/HS-ST ngày 24/08/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÌNH XUYÊN, TỈNH VĨNH PHÚC

BẢN ÁN 52/2018/HS-ST NGÀY 24/08/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 24 tháng 8 năm 2018, tại Trụ sở Ủy ban nhân dân thị trấn H, huyện B, tỉnh Vĩnh Phúc mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 59/2018/TLST-HS ngày 01 tháng 8 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số:54/2018/QĐXXST-HS ngày 13 tháng 8 năm 2018 đối với bị cáo:

Phạm Minh N, sinh ngày 23 tháng 8 năm 1984 tại Khu phố A, thị trấn H, huyện B, tỉnh Vĩnh Phúc; nơi cư trú: Khu phố A, thị trấn H, huyện B, tỉnh Vĩnh Phúc; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: Lớp 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Ngọc Q (Đã chết) và bà Nguyễn Thị T (Đã chết); vợ: Lê Thị Hồng T; con: Có 3 con, lớn nhất sinh năm 2010, nhỏ sinh năm 2013; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 14 tháng 6 năm 2018 đến nay, “có mặt”.

- Người tham gia tố tụng khác:

Người làm chứng:

- Ông Nguyễn Văn H “vắng mặt”.

- Ông Nguyễn Hữu S “vắng mặt”.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Phạm Minh N là người nghiện từ năm 2009 đến nay, khoảng 21giờ ngày 12 tháng 6 năm 2018, Phạm Minh N đi xe bus từ nhà đến khu vực D, phường L, thành phố V, tỉnh Vĩnh Phúc gặp bạn nghiện là một nam giới tên là L, không rõ danh tính, thì được người này cho N 01 gói ma túy bọc bằng mảnh giấy học sinh, bên trong có chứa chất cục bột màu trắng. Sau đó, N một mình đi đến ga tàu ở thành phố V, tỉnh Vĩnh Phúc sử dụng hết một phần, phần còn lại N cất giấu trong người để khi nào có nhu cầu sử dụng nốt. Đến khoảng 15 giờ ngày 14 tháng 06 năm 2018, do muốn sử dụng ma túy nên N cất giấu gói ma túy trên vào túi quần bên phải phía trước mặc trên người đi đến đoạn đường từ thị trấn H đi xã T thuộc địa phận Khu phố A, thị trấn H, huyện B để mua xi lanh và tìm chỗ vắng vẻ sử dụng ma túy thì bị Cơ quan điều tra - Công an huyện Bình Xuyên phát hiện, bắt quả tang. Thu giữ 01 gói nhỏ bên ngoài là mảnh giấy học sinh, kích thước 3cm x3cm, bên trong có chứa chất cục bột màu trắng, niêm phong ký hiệu là A, ngoài ra còn tạm giữ của N số tiền 5.000 đồng thu tại túi quần phía trước đang mặc trên người.

Cùng ngày, Cơ quan điều tra đã tiến hành khám xét khẩn cấp nơi ở của Phạm Minh N, kết quả khám xét không phát hiện, thu giữ được đồ vật, tài liệu gì liên quan đến ma túy.

Ngày 14 tháng 6 năm 2018, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Bình Xuyên ra Quyết định số 267, trưng cầu Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Vĩnh Phúc tiến hành giám định chất tinh thể dạng đá không màu đã thu giữ của N ký hiệu A.

Tại Kết luận số 811/KLGĐ ngày 18 tháng 6 năm 2018 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Vĩnh Phúc, kết luận: “Chất cục bột màu trắng trong mẫu ký hiệu A là ma túy lẫn tạp chất, loại heroine, khối lượng 0,1959 gam, khối lượng heroine trong 0,1959 gam mẫu là 0,1062 gam”; hoàn trả lại sau giám định cho cơ quan trưng cầu gồm 0,1182 gam mẫu và toàn bộ bao gói.

Đối với số tiền 5.000 đồng thu giữ của N, N khai là tiền của N mang đi để mua xi lanh nhằm mục đích chích ma túy.

Đối với đối tượng tên L đã đưa ma túy cho Ng để sử dụng, Cơ quan điều tra đã tiến hành xác minh, nhưng không xác định được danh tính.

Tại Cơ quan cảnh sát điều tra - Công an huyện Bình Xuyên, Phạm Minh N đã thành khẩn khai nhận hành vi của mình.

Tại Cáo trạng số 59/CT-VKSBX ngày 31 tháng 7 năm 2018, Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Xuyên đã truy tố Phạm Minh N về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 (đã được sửa đổi bổ sung năm 2017).

Tại phiên tòa Kiểm sát viên trình bày lời luận tội đối với bị cáo, giữ nguyên quan điểm truy tố như Cáo trạng, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự 2015; điểm s khoản 1 Điều 51, của Bộ luật hình sự năm 2015 xử phạt bị cáo Phạm Minh N từ 01 năm đến 01năm 03 tháng tù, không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo và đề nghị xử lý vật chứng theo quy định của pháp luật.

Ý kiến của những người tham gia tố tụng:

Người làm chứng ông Nguyễn Văn H và ông Nguyễn Hữu S vắng mặt tại phiên tòa, nhưng quá trình điều tra ông H và ông S đã khai đầy đủ phù hợp với các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án và sự việc xảy ra ngày 14 tháng 6 năm 2018 đúng như lời khai của bị cáo.

XÉT THẤY

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Quá trình điều tra cũng như tại phiên toà, bị cáo Phạm Minh N thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung Cáo trạng truy tố của Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Xuyên, bị cáo khai nhận: Khoảng 15 giờ ngày 14 tháng 06 năm 2018, tại ven đường mới hướng đi từ thị trấn H đi T thuộc địa phận Khu phố A, thị trấn H, huyện B, tỉnh Vĩnh Phúc; Cơ quan điều tra- Công an huyện Bình Xuyên phát hiện, bắt quả tang Phạm Minh N có hành vi tàng trữ trái phép 0,1062 gam heroine để sử dụng.

[2] Xét lời nhận tội của bị cáo là phù hợp với các tài liệu có trong hồ sơ như: Biên bản bắt người có hành vi phạm tội quả tang, lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người làm chứng và vật chứng vụ án thu giữ được. Vì vậy, có đủ cơ sở để khẳng định hành vi của Phạm Minh N đã phạm vào tội “ Tàng trữ trái phép chất ma túy”; tội danh được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ Luật hình sự năm 2015 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017).

 [3] Xét tính chất vụ án là nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, hành vi của bị cáo đã xâm phạm đến tính chất độc quyền về quản lý các chất gây nghiện của Nhà nước, là nguyên nhân, phát sinh các tệ nạn xã hội, làm ảnh hưởng đến phong trào phòng chống các tệ nạn xã hội ở địa phương, loại tội phạm này hiện nay ngày càng ra tăng; vì vậy, cần phải xử lý nghiêm bị cáo và xử phạt bị cáo mức hình phạt tù mới có tác dụng răn đe và phòng ngừa chung, vì vậy, cần phải xử phạt bị cáo hình phạt như đề nghị của Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Xuyên là phù hợp.

[4] Xét nhân thân cũng như các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo thấy rằng: Trước khi phạm tội bị cáo có nhân thân tốt, không có tiền án, tiền sự; quá trình điều tra và tại phiên toà bị cáo đã thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình đây là tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015, vì vậy Hội đồng xét xử sẽ xem xét khi quyết định hình phạt.

[5] Về hình phạt bổ sung: Tại Biên bản xác minh ngày 17 tháng 6 năm 2018 bị cáo không có nghề nghiệp, thu nhập không ổn định; mục đích tàng trữ trái phép chất ma túy để sử dụng không có mục đích kiếm lời; vì vậy, miễn áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 đối với bị cáo N.

Đối với trường hợp đối tượng nam giới tên là L đã đưa ma túy cho N để sử dụng, Cơ quan điều tra đã tiến hành xác minh, nhưng không xác định được danh tính; vì vậy Hội đồng xét xử không xem xét.

[6] Về vật chứng:

Đối với mẫu vật còn lại sau giám định gồm 0,1182 gam mẫu ma túy và toàn bộ bao gói Cơ quan giám định hoàn trả lại, không có giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy.

Đối với số tiền 5.000 đồng thu giữ của N, N dùng để mua xi lanh nhằm mục đích chích ma túy; vì vậy, cần phải tịch thu nộp ngân sách nhà nước.

 [7] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Tại phiên tòa bị cáo và những người tham gia tố tụng không có ý kiến khiếu nại gì về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng được thực hiện đều phù hợp với quy định của pháp luật.

[8] Về án phí : Buộc bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Phạm Minh N phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma  túy”.

 Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự 2015 (đã được sửa đổi bổ sung năm 2017); điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015.

Xử phạt bị cáo Phạm Minh N 01(Một) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ, tạm giam ngày 14 tháng 6 năm 2018.

Áp dụng khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015: Tịch thu, tiêu hủy 0,1182 gam mẫu cùng toàn bộ bao gói. Tịch thu sung quỹ Nhà nước số tiền 5.000 đồng (Năm nghìn đồng) là tiền sử dụng vào việc phạm tội. Tất cả vật chứng nêu trên có đặc điểm như biên bản giao nhận vật chứng do Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bình Xuyên lập ngày 23 tháng 8 năm 2018.

Áp dụng khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án: Buộc bị cáo Phạm Minh N phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án bị cáo có quyền kháng cáo bản án để yêu cầu xét xử phúc thẩm./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

195
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 52/2018/HS-ST ngày 24/08/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:52/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bình Xuyên - Vĩnh Phúc
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 24/08/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về