Bản án 52/2017/HNGĐ-ST ngày 22/09/2017 về ly hôn

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HƯNG HÀ, TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 52/2017/HNGĐ-ST NGÀY 22/09/2017 VỀ LY HÔN

Ngày 22 tháng 9 năm 2017, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Hưng Hà - tỉnh Thái B xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 207/2017/TLST - HNGĐ ngày 09 tháng 8 năm 2017 về "Ly hôn, tranh chấp về nuôi con " theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 58/2017/QĐXX-ST ngày 08 tháng 9 năm 2017 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị H, sinh năm 1984. (có mặt). Địa chỉ: Khu T, thị trấn H, huyện H, tỉnh Thái Bình.

2. Bị đơn: Anh Phạm Thanh B, sinh năm 1982. (vắng mặt). Địa chỉ: Đội 11, thôn N, xã C, huyện T, tỉnh Hải Dương.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và trong quá trình xét xử, nguyên đơn chị Nguyễn Thị H trình bày:

Về hôn nhân: Chị và anh Phạm Thanh B kết hôn cùng nhau do hai bên tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại trụ sở Uỷ ban nhân dân (viết tắt UBND) xã C, huyện T, tỉnh Hải Dương vào ngày 20/4/2009. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống hòa thuận, hạnh phúc đến cuối năm 2012 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn chủ yếu là do vợ chồng tính tình không hợp nhau, không bảo ban được nhau trong cuộc sống hàng ngày. Mâu thuẫn căng thẳng, vợ chồng không khắc phục được chị đã phải đưa con về nhà bố mẹ đẻ ở khu T, thị trấn H, huyện H, tỉnh Thái Bình để sinh sống từ năm 2015, vợ chồng sống ly thân từ đó đến nay. Nay chị xác định tình cảm vợ chồng không còn, chị đề nghị Toà án nhân dân (viết tắt TAND) huyện Hưng Hà giải quyết cho chị được ly hôn anh B.

Về nuôi con chung: Chị và anh B có 01 con chung là Phạm Huyền Gia L, sinh ngày 12/11/2009, hiện nay con chung do chị đang nuôi dưỡng. Nếu ly hôn chị xin được trực tiếp nuôi con, không yêu cầu anh B góp cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Chị và anh B không có tài sản chung và không vay nợ ai.

Tại bản tự khai vào ngày 08/9/2017, anh Phạm Thanh B trình bày:

Về hôn nhân: Anh và chị Nguyễn Thị H kết hôn cùng nhau do hai bên tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại trụ sở Uỷ ban nhân dân xã C, huyện T, tỉnh Hải Dương vào ngày 20/4/2009. Sau khi kết hôn, đến tháng 11 năm 2009, chị H sinh con, sau đó vợ chồng chung sống hòa thuận, hạnh phúc được khoảng 02 năm  thì phát sinh mâu thuẫn. Mâu thuẫn vợ chồng ngày càng trầm trọng, không khắc phục được chị H đã đưa con về nhà bố mẹ đẻ ở khu T, thị trấn H, huyện H, tỉnh Thái B để sinh sống, vợ chồng sống ly thân từ đó đến nay. Nay anh xác định tình cảm vợ chồng không còn, chị H có đơn ly hôn, anh đồng ý ly hôn.

Về nuôi con chung: Anh và chị H có 01 con chung là Phạm Huyền Gia L, sinh ngày 12/11/2009, hiện nay con chung do chị H đang nuôi dưỡng. Nếu ly hôn anh nhường chị H tiếp tục nuôi con.

Về chia tài sản chung: Anh và chị H không có tài sản chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại phiên toà hôm nay, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Hưng Hà phát biểu ý kiến: Về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký Toà án kể từ khi thụ lý đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án là đúng theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Về việc chấp hành pháp luật của những người tham gia tố tụng: kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án, chị H, anh B đã thực hiện quyền và nghĩa vụ đúng theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Về nội dung vụ án: đề nghị chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị H, về quan hệ hôn nhân xử cho chị Nguyễn Thị H được ly hôn với anh Phạm Thanh B, về con chung xử giao con Phạm Huyền Gia L cho chị Nguyễn Thị H nuôi dưỡng, chấp nhận sự tự nguyện của chị H không yêu cầu anh B cấp dưỡng nuôi con cùng chị, tài sản chung: không có. Chị H phải chịu tiền án phí ly hôn sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về tố tụng: Việc chị Nguyễn Thị H khởi kiện yêu cầu xin ly hôn với anh Phạm Thanh B. Theo quy định tại khoản 1, Điều 35, Điều 36, điểm a, khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự. Anh Phạm Thanh B có đơn xin vắng mặt tại phiên hòa giải, tiếp cận chứng cứ và tại phiên tòa xét xử do đó Tòa án xét xử vắng mặt anh B theo quy định tại khoản 1, Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về hôn nhân: Chị Nguyễn Thị H và anh Phạm Thanh B kết hôn trên cơ sở đôi bên tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại UBND xã C, huyện T, tỉnh Hải Dương vào ngày 20/4/2009, đây là hôn nhân hợp pháp. Quá trình chung sống, vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn do vợ chồng tính tình không hợp nhau, vợ chồng đã sống ly thân năm 2015 đến nay. Nay chị H và anh B đều xác định tình cảm vợ chồng không còn. Xét thấy, mâu thuẫn vợ chồng giữa chị H và anh B đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được nên xử cho chị H được ly hôn anh B là phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình.

[3] Về nuôi con chung: Chị Nguyễn Thị H và anh Phạm Thanh B có 01 con chung là Phạm Huyền Gia L, sinh ngày 12/11/2009, hiện con chung do chị H đang trực tiếp nuôi dưỡng. Chị H và anh B đều thống nhất để chị H tiếp tục nuôi dưỡng cháu L, anh B không phải góp cấp dưỡng nuôi con cùng chị H, thấy sự tự nguyện của chị H và anh B là hoàn toàn phù hợp với quy định của pháp luật và phù hợp với nguyện vọng của cháu L. Vì vậy, cần giao cháu L cho chị H tiếp tục nuôi dưỡng và không đặt trách nhiệm cấp dưỡng nuôi con đối với anh B là phù hợp với quy định tại Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình.

[4] Về chia tài sản: Chị Nguyễn Thị H và anh Phạm Thanh B không có tài sản chung, không vay ai và cho ai vay, nên không đặt ra yêu cầu giải quyết.

[5] Về án phí: Chị Nguyễn Thị H phải chịu tiền án phí ly hôn sơ thẩm.

Từ các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 4, Điều 147, khoản 1, Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 14, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình; Điều 26; Điều 27; điểm đ, tiểu mục 1.3 Mục I phần II Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Về hôn nhân: Xử cho chị Nguyễn Thị H được ly hôn anh Phạm Thanh B.

2. Về nuôi con chung: Giao con Phạm Huyền Gia L, sinh ngày 12 tháng 11 năm 2009 cho chị Nguyễn Thị H trực tiếp nuôi dưỡng. Anh B không phải góp cấp dưỡng nuôi con cùng chị H. Anh B có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở.

3. Về tài sản: Không xem xét giải quyết.

4. Về án phí: Chị Nguyễn Thị H phải chịu 300.000 đồng tiền án phí ly hôn sơ thẩm, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng chị H đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí số 0004865 ngày 09/8/2017 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hưng Hà, tỉnh Thái B, chị H đã nộp đủ tiền án phí.

5. Chị Nguyễn Thị H có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Anh Phạm Thanh B có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

276
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 52/2017/HNGĐ-ST ngày 22/09/2017 về ly hôn

Số hiệu:52/2017/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hưng Hà - Thái Bình
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 22/09/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về