TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ TN, TỈNH TN
BẢN ÁN 520/2019/HSST NGÀY 07/10/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 07 tháng 10 năm 2019, tại hội trường Tòa án nhân dân thành phố TN, tỉnh TN xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 407/2019/HSST, ngày 19 tháng 7 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số:434/2019/QĐXXST-HS ngày 29/7/2019 đối với bị cáo:
Triệu Đức T, Sinh ngày 28/10/1969; tên gọi khác: Không; giới tính: Nam; nơi cư trú: Xóm S, xã SC,thành phố TN, tỉnh TN; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Nùng; tôn giáo: Không; trình độ học vấn: 07/10; nghề nghiệp: Làm ruộng; chức vụ trước khi phạm tội (Đảng, chính quyền, đoàn thể): Không; con ông: Triệu Đức Tín, sinh năm 1945 (đã chết) và con bà Nguyễn Thị Nhung, sinh năm 1947; gia đình có 04 anh em, bị cáo là con thứ nhất; vợ, con: Chưa có.
Tiền án: Tại bản án số 42/HSST ngày 30/7/1998 của Tòa án nhân dân huyện Phú Lương, tỉnh TN xử phạt 24 tháng tù giam về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”. Chưa chấp hành xong hình phạt bổ sung Tiền sự: Không.
- Nhân thân:
+ Tại bản án số 72/2013/HSST ngày 19/3/2013 của Tòa án nhân dân thành phố TN, tỉnh TN xử phạt 36 tháng tù giam về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Chấp hành xong bản án ngày 20/8/2015.
+ Tại Quyết định số 44 ngày 21/11/2007 của Công an thành phố TN xử phạt vi phạm hành chính số tiền 150.000 đồng về hành vi “Trộm cắp tài sản”.
Bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 26/4/2019 đến 09/05/2019 (được thay đổi biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú). và bị bắt tạm giam từ ngày 07/10/2019.
Bị cáo có mặt tại phiên tòa.
Ngƣời chứng kiến:
- Ông Đào Sỹ C, sinh năm 1985 (Vắng mặt tại phiên tòa)
HKTT: Xóm H, xã SC, thành phố TN, tỉnh TN.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 21 giờ 40 phút ngày 26/4/2019, tổ công tác của Công an xã SC, thành phố TN làm nhiệm vụ tại xóm 6, xã SC thì phát hiện 01 người đàn ông có biểu hiện liên quan đến ma túy. Tổ công tác yêu cầu kiểm tra, người đàn ông khai tên là Triệu Đức T và tự giác giao nộp cho tổ công tác 01 gói giấy bạc màu vàng bên trong chứa chất bột màu trắng. Thiện khai đó là Heorine vừa mua về để sử dụng cho bản thân. Tổ công tác đã tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Thiện và niêm phong vật chứng theo quy định.
Hồi 00 giờ 35 phút ngày 27/4/2019, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố TN đã tiến hành cân xác định số chất bột màu trắng trong 01 gói giấy bạc màu vàng có khối lượng 0,142 gam.
Tại bản kết luận giám định số 724/KL – PC09 ngày 04/5/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh TN kết luận: Chất bột màu trắng thu giữ của Triệu Đức T là chất ma túy, loại Heroine, có khối lượng 0,142 gam.
Tại Cơ quan điều tra, Triệu Đức T khai nhận: Khoảng 21 giờ 30 phút ngày 26/4/2019, Thiện đi bộ từ nhà tại xóm S, xã SC, thành phố TN đến khu vực phường Tân Long, thành phố TN để tìm mua ma túy về sử dụng cho bản thân. Tại đây, Thiện gặp và mua của một người phụ nữ tên Nga, trú tại: tổ 18, phường Tân Long, thành phố TN 1 gói giấy bạc màu vàng bên trong chứa Heroine với giá 200.000 đồng. Mua xong, Thiện đi tìm nơi sử dụng ma túy thì bị tổ công tác của Công an xã SC phát hiện bắt quả tang, thu giữ vật chứng như nêu trên.
Tại bản cáo trạng số 399/CT-VKSTPTN ngày 15/7/2019 của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố TN truy tố bị cáo Triệu Đức T phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm c, khoản 1 Điều 249 BLHS.
Kết thúc phần xét hỏi, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố TN trình bày lời luận tội, giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:
- Áp dụng: Điểm c, khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 38 Bộ luật hình sự 2015 xử phạt: bị cáo Triệu Đức T từ 24 đến 30 tháng tù giam. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo Triệu Đức T.
- Áp dụng Điều 47 BLHS năm 2015, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 xử lý vật chứng theo quy định.
- Áp dụng Điều 136 BLTTHS 2015; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu án phí và lệ phí Tòa án, buộc bị cáo phải nộp án phí HSST vào ngân sách nhà nước.
Trong phần tranh luận bị cáo không tranh luận gì với bản luận tội của Viện kiểm sát.
Trước khi Hội đồng xét xử nghị án, bị cáo nói lời sau cùng bị cáo không có ý kiến gì.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an, cơ quan Viện kiểm sát, Điều tra viên, Kiểm sát viên thành phố TN trong quá trình điều tra truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến khiếu nại về hành vi quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2]Tại phiên tòa hôm nay bị cáo Triệu Đức T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội, lời nhận tội của bị cáo phù hợp với biên bản bắt giữ người có hành vi phạm tội quả tang, vật chứng thu giữ, lời khai của người chứng kiến, kết luận giám định và các tài liệu chứng cứ khác được thu thập trong hồ sơ vụ án. Với chứng cứ nêu trên có đủ cơ sở kết luận: Hồi 21 giờ 40 phút ngày 26/4/2019, tại khu vực xóm 6, xã SC, thành phố TN, Triệu Đức T đang có hành vi tàng trữ 0,142 gam Heroine với mục đích để sử dụng cho bản thân thì bị tổ công tác của Công an xã SC, thành phố TN phát hiện, bắt quả tang, thu giữ vật chứng.
Hành vi của bị cáo Triệu Đức T đã phạm vào tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, tội phạm và hình phạt quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS năm 2015.
Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố TN truy tố bị cáo về tội danh và hình phạt viện dẫn là hoàn toàn có căn cứ và đúng quy định của pháp luật.
Điều 249 BLHS quy định:
““1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy...thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:
a)...
c) Heroine... có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;”
[3] Xét tính chất mức độ của hành vi phạm tội là nghiêm trọng, hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, bởi ma túy hủy hoại sức khỏe con người, là nguyên nhân phát sinh tội phạm và các tệ nạn xã hội khác, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý các chất ma túy của Nhà nước.Việc đưa ra xét xử đối với bị cáo là cần thiết để răn đe phòng ngừa tội phạm chung.
[4] Xét nhân thân, các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo Hội đồng xét xử thấy: Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa hôm nay bị cáo Triệu Đức T có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS. Bị cáo phải chịu một tình tiết tăng nặng quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 BLHS là tái phạm. Xét tính chất, mức độ và hành vi phạm tội và nhân thân của bị cáo cần xử phạt bị cáo mức án tương xứng, cách ly xã hội một thời gian để giáo dục, cải tạo bị cáo thành công dân tốt và có ích cho xã hội.
[5] Về hình phạt bổ sung: Ngoài hình phạt tù, lẽ ra bị cáo phải chịu hình phạt bổ sung theo khoản 5 Điều 249 BLHS, nhưng xét thấy bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, không nghề nghiệp, mua ma túy về sử dụng không mang tính chất vụ lợi. Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
[6] Vật chứng của vụ án:
- Tịch thu tiêu huỷ: 01 bì niêm phong ký hiệu T (Bì niêm phong chứa chất ma túy - Mẫu hoàn sau giám định), (Vật chứng hiện đang lưu giữ bảo quản tại kho vật chứng Chi cục thi hành án dân sự thành phố TN theo biên bản giao nhận vật chứng số 402 ngày 05/7/2019).
[7] Án phí; Quyền kháng cáo: Bị cáo Triệu Đức T phải nộp án phí hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
[8] Về nguồn gốc số ma túy bị thu giữ, Triệu Đức T khai mua một người phụ nữ tên Nga, trú tại tổ 18, phường Tân Long, thành phố TN để sử dụng cho bản thân. Qúa trình xác minh, không xác định được lai lịch địa chỉ của người này, nên Cơ quan điều tra không có căn cứ làm rõ để xử lý.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào: Điểm c, khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 38 BLHS năm 2015; Điều 329 BLTTHS năm 2015.
Tuyên bố: Bị cáo Triệu Đức T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
Xử phạt: Bị cáo Triệu Đức T 24 (hai mươi bốn) tháng tù. Thời hạn tù được tính từ ngày 07/10/2019 và được trừ đi thời hạn tạm giữ, tạm giam từ 26/4/2019 đến 09/5/2019.
Quyết định tạm giam bị cáo Triệu Đức T 45 (bốn mươi lăm ngày) kể từ ngày tuyên án để đảm bảo Thi hành án.
Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
Về vật chứng vụ án: Căn cứ Điều 47 BLHS năm 2015, Điều 106 BLTTHS năm 2015:
- Tịch thu tiêu huỷ: 01 bì niêm phong ký hiệu T (Bì niêm phong chứa chất ma túy- Mẫu hoàn sau giám định), (Vật chứng hiện đang lưu giữ bảo quản tại kho vật chứng Chi cục thi hành án dân sự thành phố TN theo biên bản giao nhận vật chứng số 402 ngày 05/7/2019).
Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016, buộc bị cáo Triệu Đức T phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm vào ngân sách nhà nước.
Án xử công khai sơ thẩm có mặt bị cáo, báo cho bị cáo biết có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án 520/2019/HSST ngày 07/10/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 520/2019/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Tây Ninh - Tây Ninh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 07/10/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về