Bản án 518/2018/HNGĐ-ST ngày 10/10/2018 về ly hôn giữa chị M và anh T

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ NAM ĐỊNH, TỈNH NAM ĐỊNH

BẢN ÁN 518/2018/HNGĐ-ST NGÀY 10/10/2018 VỀ LY HÔN GIỮA CHỊ M VÀ ANH T

Ngày 10 tháng 10 năm 2018, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố NĐ, tỉnh Nam Định xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 211/2018/TLST-HNGĐ ngày 23-5-2018 về tranh chấp “Ly hôn và nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 61/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 13-9-2018 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Trần Thị M, sinh năm 1984; Nơi cư trú: Số 79 đường TTT, phường LV, thành phố NĐ, tỉnh Nam Định.

- Bị đơn: Anh Trần Đức T, sinh năm 1980; Nơi cư trú: Số 79 đường TTT, phường LV, thành phố NĐ, tỉnh Nam Định.

(Chị M có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, anh T có mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện ghi ngày 10-5-2018, bản tự khai ghi ngày 25-5-2018  và quá trình tham gia tố tụng, nguyên đơn là chị Trần Thị M trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị và anh Trần Đức T kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn ngày 30-10-2008 tại Ủy ban nhân dân phường LV, thành phố NĐ, tỉnh Nam Định. Sau khi kết hôn, vợ chồng chị chung sống bình thường đến cuối năm 2014 thì xảy ra nhiều mâu thuẫn. Nguyên nhân là do vợ chồng bất đồng quan điểm sống, không thống nhất được với nhau về cách ứng xử trong gia đình.

Vợ chồng mất niềm tin ở nhau, coi thường nhau. Từ đầu năm 2017 cho đến nay, vợ chồng chị sống ly thân, không quan tâm đến nhau. Nay xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn anh T.

Về con chung: Vợ chồng có hai con chung là Trần Việt K, sinh ngày 20-9-2009 và Trần Hà L, sinh ngày 26-5-2014. Chị M có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng cả hai con chung.

Về cấp dưỡng nuôi con, chị sẽ tự thỏa thuận với anh T nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản và công nợ chung: Không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Quá trình giải quyết vụ án, bị đơn là anh Trần Đức T đã được tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng. Anh T có đến Tòa án thể hiện quan điểm đồng ý ly hôn và nhất trí để chị M trực tiếp nuôi dưỡng cả hai con chung nhưng không làm bản tự khai, không ký biên bản lấy lời khai và các văn bản tố tụng. Tại phiên tòa hôm nay anh T có quan điểm nếu như chị M kiên quyết ly hôn thì anh T cũng đồng ý. Về con chung: Anh T xác nhận vợ chồng có hai con chung là Trần Việt K, sinh ngày 20-9-2009 và Trần Hà L, sinh ngày 26-5-2014. Anh T đồng ý để chị M được trực tiếp nuôi dưỡng cả hai con chung. Việc cấp dưỡng nuôi con, anh T sẽ tự thỏa thuận với chị M nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản và công nợ chung: Không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bà Trần Thị L (mẹ đẻ của anh T) trình bày: Do anh T bị nhiễm chất độc màu da cam nên không có khả năng nhận thức, do vậy bà đề nghị được là người đại diện cho anh T để tham gia tố tụng tại Tòa án. Ngày 24-7-2018, Tòa án nhân dân thành phố NĐ đã ra Thông báo yêu cầu cung cấp tài liệu, chứng cứ số 211/2018/TB-TA với nội dung là trong thời hạn 30 (ba mươi) ngày kể từ ngày nhận được thông báo, nếu chị M, anh T và bà L có yêu cầu đề nghị Tòa án tuyên bố anh T là người mất năng lực hành vi dân sự thì phải làm đơn và cung cấp các tài liệu, chứng cứ chứng minh cho yêu cầu để nộp cho Tòa án. Tòa án đã tống đạt cho chị Trần Thị M, anh Trần Đức T và bà Trần Thị L. Ngày 26-7-2018, chị M có bản tự khai bổ sung về việc anh T vẫn sinh hoạt một cách bình thường và phụ giúp gia đình bán hàng, anh T không có biểu hiện tâm thần như trình bày của bà L nên chị không yêu cầu Tòa án tuyên bố anh T mất năng lực hành vi dân sự, chị chỉ yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn và con chung với anh T. Đối với bà L và anh T, sau khi được tống đạt Thông báo yêu cầu cung cấp tài liệu, chứng cứ nhưng không ai làm đơn yêu cầu và không nộp tài liệu, chứng cứ để chứng minh đối với yêu cầu đó.

Tại biên bản xác minh, thu thập chứng cứ ngày 07-8-2018 của Tòa án nhân dân thành phố NĐ với chính quyền địa phương tại nơi vợ chồng chị M và anh T sinh sống và được cung cấp là vợ chồng anh chị đã sống ly thân từ đầu năm 2017 cho đến nay. Nguyên nhân mâu thuẫn cụ thể thì chính quyền địa phương không rõ vì không báo cáo địa phương để tiến hành hòa giải.

Tại biên bản lấy lời khai ngày 30-5-2018 của Tòa án nhân dân thành phố NĐ đối với bà Trần Thị L (mẹ đẻ của anh T), bà L xác nhận chị M và anh T có mâu thuẫn do bất đồng quan điểm sống. Từ tháng 4-2017 cho đến nay chị M và anh T sống ly thân, không quan tâm đến nhau.

Theo biên bản lấy lời khai ngày 24-7-2018 của Tòa án nhân dân thành phố NĐ đối với cháu Trần Việt K (con đẻ của chị M và anh T), cháu Khoa có nguyện vọng được mẹ trực tiếp nuôi dưỡng sau khi bố mẹ ly hôn.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố NĐ căn cứ Điều 21, Điều 262 của Bộ luật tố tụng dân sự 2015, nhận xét đánh giá:

- Về quá trình tiến hành tố tụng của Thẩm phán, Thư ký và Hội đồng xét xử đã tuân thủ đúng các quy định của pháp luật, đảm bảo quyền và nghĩa vụ của các bên đương sự.

- Về việc giải quyết vụ án:

+ Căn cứ khoản 1 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự 2015 xét xử vắng mặt chị Trần Thị M;

+ Căn cứ Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, xử ly hôn giữa chị M và anh T;

+ Giao hai cháu Trần Việt K và cháu Trần Hà L cho chị M trực tiếp nuôi dưỡng.

+ Về cấp dưỡng nuôi con, chấp nhận sự tự nguyện của chị M về việc tự thỏa thuận với anh T.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được xem xét tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh tụng, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Chị Trần Thị M có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Căn cứ khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 Hội đồng xét xử xét xử vắng mặt chị Trần Thị M.

Quá trình giải quyết vụ án, bà Trần Thị L (mẹ đẻ của anh T) trình bày anh T bị nhiễm chất độc màu da cam, mất năng lực hành vi dân sự và đề nghị được đại diện cho anh T tham gia tố tụng. Tòa án nhân dân thành phố NĐ đã tống đạt cho các đương sự về thủ tục yêu cầu tuyên bố một người mất năng lực hành vi dân sự. Tuy nhiên, sau khi được tống đạt hợp lệ thông báo, không có đương sự nào làm đơn yêu cầu và nộp tài liệu, chứng cứ chứng minh. Do vậy, Tòa án giải quyết vụ án theo thủ tục chung.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị Trần Thị M và anh Trần Đức T kết hôn trên cơ sở tự nguyện, đăng ký kết hôn ngày 30-10-2008 tại Ủy ban nhân dân phường LV, thành phố NĐ, tỉnh Nam Định nên là hôn nhân hợp pháp.

Quá trình chung sống của chị M và anh T có xảy ra mâu thuẫn. Nguyên nhân là do tính cách, quan điểm sống của vợ chồng không hợp, vợ chồng không thống nhất được với nhau về cách ứng xử trong gia đình. Từ đầu năm 2017 cho đến nay, vợ chồng anh chị sống ly thân và không còn quan tâm đến nhau. Tại phiên tòa hôm nay chị M có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt nhưng chị vẫn giữ nguyên yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn anh T và đề nghị được trực tiếp nuôi dưỡng cả hai con chung sau khi vợ chồng ly hôn. Anh T cũng đồng ý ly hôn nếu chị M vẫn kiên quyết và nhất trí để chị M trực tiếp nuôi dưỡng cả hai con chung.

Xét thấy mâu thuẫn giữa chị M và anh T đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, việc anh T không tự khai, không ký các văn bản tố tụng và việc bà L yêu cầu Tòa án tuyên bố anh T mất năng lực hành vi dân sự nhưng không làm đơn theo yêu cầu của Tòa án chỉ nhằm mục đích kéo dài thời gian giải quyết vụ án. Do vậy, cần chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị M là phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

[3] Về con chung: Chị M và anh T có hai con chung là Trần Việt K, sinh ngày 20-9-2009 và Trần Hà L, sinh ngày 26-5-2014. Chị M có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng cả hai con chung. Tại phiên tòa hôm nay, anh T cũng nhất trí để chị M nuôi dưỡng hai con chung. Xét nguyện vọng được trực tiếp nuôi con của chị M là chính đáng và phù hợp với nguyện vọng của anh T và cháu Khoa. Đối với cháu Linh thì hiện cháu còn nhỏ, lại là cháu gái nên nếu được mẹ trực tiếp nuôi dưỡng sẽ đảm bảo quyền lợi về mọi mặt của con chung. Do vậy, Hội đồng xét xử giao hai cháu Trần Việt K và Trần Hà L cho chị M trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp với quy định của pháp luật, đảm bảo quyền lợi của các con chung sau khi bố mẹ giải quyết ly hôn. Về cấp dưỡng nuôi con, chị M và anh T tự thỏa thuận với nhau, không yêu cầu giải quyết nên Tòa án không đặt ra giải quyết.

[4] Về tài sản chung và công nợ: Chị Trần Thị M và anh Trần Đức T không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không đặt ra giải quyết, nếu có tranh chấp thì sẽ được thụ lý và giải quyết bằng vụ án khác.

[5] Về án phí: Chị Trần Thị M phải nộp án phí dân sự sơ thẩm ly hôn theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014;

Căn cứ khoản 1, Điều 228, khoản 4 Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

Căn cứ Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Xử ly hôn giữa chị Trần Thị M và anh Trần Đức T.

2. Về con chung: Giao chị Trần Thị M trực tiếp nuôi hai con chung là Trần Việt K, sinh ngày 20-9-2009 và Trần Hà L, sinh ngày 26-5-2014.

Về cấp dưỡng nuôi con chị M tự thỏa thuận với anh T và không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Chị Trần Thị M và anh Trần Đức T vẫn có đầy đủ quyền và nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chưa thành niên theo quy định của pháp luật. Không ai được cản trở người không trực tiếp nuôi con thực hiện quyền, nghĩa vụ thăm nom. Người không trực tiếp nuôi con không được lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung.

3. Về án phí: Chị Trần Thị M phải nộp 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm ly hôn, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp là 300.000 đồng theo biên lai số 0000003 ngày 23-5-2018 tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố NĐ.

4. Quyền kháng cáo: Anh Trần Đức T có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án. Chị Trần Thị M có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

404
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 518/2018/HNGĐ-ST ngày 10/10/2018 về ly hôn giữa chị M và anh T

Số hiệu:518/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Nam Định - Nam Định
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 10/10/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về