Bản án 515/2020/HSPT ngày 29/09/2020 về tội đánh bạc

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 515/2020/HSPT NGÀY 29/09/2020 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Ngày 29 tháng 9 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 401/HSPT ngày 09/9/2020 đối với các bị cáo Nguyễn Ngọc Đ, Huỳnh Tấn Đ1, Đỗ Thanh T, Mai Văn T1, Bùi Ngọc T2, Trần Hữu P, Lưu Minh T3 và Đặng Duy K do có kháng cáo của các bị cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm số: 141/2020/HSST ngày 30/07/2020 của Tòa án nhân dân Quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh.

Các bị cáo có kháng cáo:

1. Nguyễn Ngọc Đ, sinh năm 1988, nơi sinh: Tại Thành phố Hồ Chí Minh, giới tính: Nam.

Đăng ký HKTT: Số 250, đường Hà Huy Giáp, tổ 3, khu phố 3A, phường X, Quận Y, Thành phố Hồ Chí Minh; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không; Trình độ học vấn: 12/12; Nghề nghiệp: Lái xe; Con ông Nguyễn Ngọc L (chết), con bà Nguyễn Thị T4; Vợ: Nguyễn Thị N; Con: Có 02 người con, lớn sinh năm 2014, nhỏ sinh năm 2019;

Tiền án, tiền sự: không.

Bị cáo tại ngoại - Có mặt.

2. Bị cáo Huỳnh Tấn Đ1, sinh năm 1986, nơi sinh: Tại Long An, giới tính: Nam.

Đăng ký HKTT: Ấ p 3, xã Phước Tuy, huyện E, tỉnh F; Nơi cư trú: Số 1207, Quốc lộ 1A, khu phố 1, phường Z, Quận Y, Thành phố Hồ Chí Minh; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 12/12; Nghề nghiệp: Lái xe; Con ông Huỳnh Văn T5, con bà Trần Thị T6; Vợ: Nguyễn Thị Huỳnh A; Con: Chưa có;

Tiền án, tiền sự: không.

Bị cáo tại ngoại - Có mặt.

3. Bị cáo Đỗ Thanh T, sinh năm 1991, nơi sinh: tại tỉnh Cà Mau, giới tính: Nam.

Đăng ký HKTT: Khu phố Vạn Hạnh, phường Q, thị xã Q, tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu; Nơi cư trú: Số 61/2F, tổ 170, ấp Đông 2, xã Ư, huyện R, Thành phố Hồ Chí Minh; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Học vấn: 10/12; Nghề nghiệp: Lái xe; Con ông Đỗ Thanh K1, con bà Trần Thị L1; Vợ: Huỳnh Hồng N1; Con: Có 02 con, lớn nhất sinh năm 2012, nhỏ nhất sinh năm 2019;

Tiền án, tiền sự: không.

Bị cáo tại ngoại - Có mặt.

4. Bị cáo Mai Văn T1, sinh ngày 1971, nơi sinh: Tại Thành phố Hồ Chí Minh, giới tính: Nam.

Nơi cư trú: Số 38, đường Lê Đình Cẩn, khu phố 9, phường X, quận Z, Thành phố Hồ Chí Minh; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 6/12; Nghề nghiệp: Lái xe; Con ông Mai Văn N2 (chết), con bà Nguyễn Thị B; Vợ: Nguyễn Thị L2; Con: Có 01 con sinh năm 2016;

Tiền án, tiền sự: không.

Nhân thân: năm 1995, bị Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh xét xử phạt 05 tháng tù về tội “Buôn bán hàng cấm” theo bản án hình sự sơ thẩm số 5/HSST ngày 13/01/1995, chấp hành xong vào năm 1995.

Bị cáo tại ngoại - Có mặt.

5. Bị cáo Bùi Ngọc T2, sinh năm 1978, nơi sinh: Tại tỉnh Quảng Ngãi, giới tính: Nam.

Đăng ký HKTT: Thôn 2, xã S, thành phố Q, tỉnh Quảng Ngãi; Nơi cư trú: Nhà không số, tổ 4, ấp 6B, xã A, huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 9/12; Nghề nghiệp: Sửa xe; Con ông Bùi Ngọc L3 (chết), con bà Lê Thị P1; Vợ: Phạm Thị S; Con: Có 02 người con, lớn sinh năm 2005, nhỏ sinh năm 2013;

Tiền án, tiền sự: không.

Bị cáo tại ngoại - Có mặt.

6. Bị cáo Trần Hữu P, sinh năm 1986, nơi sinh: Tại tỉnh Thừa Thiên Huế, giới tính: Nam.

Đăng ký HKTT: Tổ 7, khu vực 2, phường O, thành phố M, tỉnh Thừa Thiên Huế; Nơi cư trú: Số 1073, đường Quốc lộ 1A, khu phố 1, phường Z, Quận Y, Thành phố Hồ Chí Minh; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 9/12; Nghề nghiệp: Thợ máy; Con ông Trần Hữu P2, con bà Nguyễn Thị P3; Vợ: Lê Thị H; Con: Có 02 người con, lớn nhất sinh năm 2016, nhỏ nhất sinh năm 2019;

Tiền án, tiền sự: không.

Bị cáo tại ngoại - Có mặt.

7. Bị cáo Lưu Minh T3, sinh năm 1979, nơi sinh: Tại Thành phố Hồ Chí Minh, giới tính: Nam.

Nơi cư trú: Số 809/3D, tổ 44, khu phố 3, phường X, Quận Y, Thành phố Hồ Chí Minh; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Phật giáo; Trình độ học vấn: 8/12; Nghề nghiệp: Lái xe; Con ông Lưu Đệ, con bà Tô Thị Ngọc A1 (chết); Vợ: Bùi Thị Mỹ D; Con: Có 02 người con, lớn nhất sinh năm 2016, nhỏ nhất sinh năm 2016;

Tiền án, tiền sự: không.

Bị cáo tại ngoại - Có mặt.

10. Bị cáo Đặng Duy K, sinh năm 1986, nơi sinh: tại tỉnh Bến Tre, giới tính: Nam.

Nơi cư trú: Số 337, ấp Phú Thạnh (ấp 4), xã E, huyện C, tỉnh Bến Tre; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 8/12; Nghề nghiệp: Lái xe; Con ông Đặng Văn T6, con bà Nguyễn Thị Đ3; Vợ: Trần Thị Cẩm N3; Con: Có 01 con sinh tháng 3/2020 (bị cáo cung cấp giấy chứng sinh tại phiên tòa) Tiền án, tiền sự: không.

Nhân thân: Ngày 02/6/2016 bị Công an Quận 12 xử phạt hành chính 1.500.000 đồng về hành vi đánh bạc. Bị cáo đã chấp hành xong.

Bị cáo tại ngoại - Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 15 giờ 00 phút, ngày 02/02/2020, đội Cảnh sát hình sự phối hợp cùng Công an phường Thạnh Xuân, Quận 12 kiểm tra bãi xe ôtô không tên tại địa chỉ số 892, Quốc lộ 1A, tổ 8, khu phố 5, phường Thạnh Xuân, Quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh do chị Đặng Thị Kim T7 làm chủ, phát hiện bắt quả tang Nguyễn Ngọc Đ đang làm cái cho các đối tượng tham gia đánh bạc thắng thua bằng tiền dưới hình thức đánh bài “Ngầu hầm”, gồm: Bùi Ngọc T2, Bùi Quang T8, Huỳnh Tuấn Đ4, Đỗ Thanh T, Nguyễn Hữu T9, Đặng Duy K, Lưu Minh T3 và Trần Hữu P, hình thức đánh bạc là một người làm cái sau đó chia cho mỗi người chơi 05 lá bài cách tính điểm như sau trước tiên phải có 03 lá bài cộng lại có bội số lá 10 điểm (nếu không có bội số này thì sẽ bị thua) tiếp theo cộng 02 lá bài còn lại điểm số tính từ 1 đến 10 và căn cứ vào đây để người tham gia đặt tụ thắng, thua trực tiếp với người cầm cái. Tại hiện trường Công an phường Thạnh Xuân thu giữ một bộ bài tây 52 lá và tiền sử dụng để đánh bạc là 39.350.000 đồng (trong đó thu trên chiếu bạc là 2.800.000 đồng) nên Công an phường Thạnh Xuân, Quận 12 đã tiến hành lập biên bản phạm tội của tang.

Qua làm việc các bị cáo khai nhận như sau:

Nguyễn Ngọc Đ khai nhận: Vào khoảng 14 giờ 30 phút, ngày 02/02/2020, Đông đến bãi giữ xe của chị T7 để làm tiệc khai trương đầu năm khi đến nơi thì Đ thấy các anh Bùi Ngọc T2, Bùi Quang T8, Huỳnh Tấn Đ1, Đỗ Thanh T, Nguyễn Hữu T9, Đặng Duy K, Lưu Minh T3, Trần Hữu P đang chơi bài “Cào rùa” thắng thua bằng tiền nên Đ cùng với Mai Văn T1 vào tham gia đánh bài cào rùa (không có người cầm cái) đặt cược từ 100.000 đồng đến 200.000 đồng sau khi đánh được khoảng 8 ván thì tất cả chuyển sang đánh bài “Ngầu hầm” lúc đầu thì Đặng Duy K cầm cái sau đó Đ bắt đầu cầm cái (còn Mai Văn T1 không tham gia đặt tụ mà góp tiền ké với Đ). Đến khoảng 15 giờ 00 phút, cùng ngày khi Đ cùng các người chơi đánh bạc thắng thua bằng tiền bằng hình thức đánh bài “Ngầm hầm”, cụ thể như sau: Bùi Ngọc T2, Bùi Quang T8, Huỳnh Tấn Đ1, Đỗ Thanh T đặt cược 200.000 đồng, Nguyễn Hữu T9 đặt cược 500.000 đồng, còn Đặng Duy K, Lưu Minh T3 và Trần Hữu P hùn tiền đặt cược 500.000 đồng, thì bị Công an phường Thạnh Xuân, Quận 12 bắt quả tang. Đ mang theo 4.000.000 đồng để đánh bạc, Đ thua 800.000 đồng, khi bị bắt thu giữ tiền sử dụng để đánh bạc của Đ là 3.200.000 đồng.

Mai Văn T1 khai nhận: T1 mang theo 10.000.000 đồng nhưng chỉ lấy ra 2.000.000 đồng dùng vào việc đánh bài Ngầu hầm (T1 không tham gia đặt tụ mà góp tiền ké với Đ). T1 thắng 1.000.000 đồng. Khi bị bắt quả tang, thu giữ số tiền dùng vào việc đánh bạc là 3.000.000 đồng. Còn 8.000.000đ là tiền cá nhân của T1 không sử dụng vào việc Đánh bạc.

Bùi Ngọc T2 khai nhận: T2 mang theo 10.000.000 đồng, sử dụng hết vào việc đánh bài “Cào rùa”, T2 đặt cược từ 100.000 đồng đến dưới 200.000 đồng. Sau đó, Nguyễn Ngọc Đ cầm cái thì T2 đặt cược 200.000 đồng. T2 thắng 1.200.000 đồng thì bị Công an bắt quả tang. Thu giữ trên chiếu bạc của T2 là 200.000 đồng và số tiền dùng vào việc đánh bạc là 11.000.000 đồng.

Bùi Quang T8 khai nhận: Toàn mang theo 5.000.000 đồng, sử dụng hết vào mục đích đánh bạc. Quá trình đánh bạc T8 thắng được 1.600.000 đồng thì bị Công an bắt quả tang. Thu giữ trên chiếu bạc là 200.000 đồng và số tiền dùng vào việc đánh bạc là 6.400.000 đồng.

Huỳnh Tấn Đ1 khai nhận: Đ1 mang theo 12.000.000 đồng nhưng chỉ sử dụng 2.000.000 đồng sử dụng vào mục đích đánh bài “Cào rùa”. Đ1 tham gia đặt cược với từ 100.000 đồng đến 200.000 đồng. Sau đó Nguyễn Ngọc Đ cầm cái thì Đ1 đặt cược 200.000 đồng. Đ1 thắng 1.200.000 đồng. Bị Công an bắt quả tang. Thu giữ trên chiếu bạc của Đ1 là 200.000 đồng, số tiền sử dụng vào mục đích đánh bạc của Đ1 là 3.000.000 đồng. Còn số tiền cá nhân của Đ1 không sử dụng vào mục đích đánh bạc là 10.000.000 đồng.

Đỗ Thanh T khai nhận: T mang theo 21.300.000 đồng nhưng chỉ sử dụng 4.000.000 đồng vào mục đích đánh bài “Cào rùa”, T đặt cược từ 100.000 đồng đến 200.000 đồng. Sau đó Nguyễn Ngọc Đ cầm cái thì T đặt cược 200.000 đồng. T thắng 1.800.000 đồng, bị Công an bắt quả tang, thu giữ số tiền trên chiếu bạc của T là 200.000 đồng, số tiền dùng vào đánh bạc là 5.600.000 đồng. Số tiền cá nhân của T không sử dụng vào mục đích đánh bạc là 17.300.000 đồng.

Nguyễn Hữu T9 khai nhận: T9 mang theo 17.000.000 đồng, nhưng chỉ sử dụng 6.000.000 đồng vào mục đích đánh bạc, đánh bài “Cào rùa”, T9 đặt cược 100.000 đồng đến 200.000 đồng. Sau đó chuyển sang chơi bài “Ngầu hầm” thì T9 đặt cược số tiền 200.000 đồng. T9 thua 4.000.000 đồng. Bị Công an bắt quả tang, thu giữ số tiền trên chiếu bạc của T9 là 500.000 đồng, số tiền dùng vào mục đích đánh bạc còn lại của T9 là 1.500.000 đồng. Còn 11.000.000 đồng là tiền cá nhân T9 dùng để mua xe không dùng vào mục đích đánh bạc.

Đặng Duy K khai nhận: K mang theo 3.500.000 đồng, sử dụng hết vào mục đích đánh bạc, đánh bài “Cào rùa” tham gia đặt cược từ 100.000 đồng và 200.000 đồng. Sau đó, Nguyễn Ngọc Đ cầm cái thì Đặng Duy K, Lưu Minh T3 và Trần Hữu P hùn mỗi người là 500.000 đồng (tổng số tiền hùn lại là 1.500.000 đồng) để tham gia đặt cược 500.000 đồng. K thua 900.000 đồng. Khi bị Công an bắt quả tang, tạm giữ số tiền trên chiếu của K, T3, P hùn lại là 500.000 đồng, số tiền thu trên người sử dụng vào mục đích đánh bạc là 2.100.000 đồng.

Lưu Minh T3 khai nhận: T3 mang theo 2.000.000 đồng, sử dụng hết vào mục đích đánh bài “Cào rùa”, T3 đặt cược từ 100.000 đồng đến 200.000 đồng. Sau đó chuyển sang chơi bài “Ngầu hầm” thì Đặng Duy K, Lưu Minh T3 và Trần Hữu P hùn mỗi người là 500.000 đồng ( tổng cộng số tiền hùn lại là 1.500.000 đồng) để tham gia đặt cược 500.000 đồng, T3 thua 1.100.000 đồng. Khi bị Công an bắt quả tang, thu giữ số tiền trên chiếc bạc của K, T3, P hùn vào là 500.000 đồng. Số tiền sử dụng vào mục đích đánh bạc của T3 là 400.000 đồng.

Trần Hữu P khai nhận: P mang theo 850.000, sử dụng hết vào mục đích đánh bài “Cào rùa”, P đặt cược từ 100.000 đồng đến 200.000 đồng. Sau đó chuyển sang chơi bài “Ngầu hầm” thì Đặng Duy K, Lưu Minh T3 và Trần Hữu P hùn mỗi người 500.000 đồng (tổng cộng số tiền hùn lại là 1.500.000 đồng) để đặt cược 500.000 đồng. P không thắng, không thua. Khi bị Công an bắt quả tang, tạm giữ số tiền trên chiếu bạc của cả K, T3, P hùn lại là 500.000 đồng. Số tiền còn lại để đánh bạc là 350.000 đồng.

Tại Cơ quan Cảnh sát Điều tra - Công an Quận 12: Nguyễn Ngọc Đ, Mai Văn T1, Bùi Ngọc T2, Bùi Quang T8, Huỳnh Tuấn Đ4, Đỗ Thanh T, Nguyễn Hữu T9, Đặng Duy K, Lưu Minh T3 và Trần Hữu P đã khai nhận hành vi phạm tội như đã nêu trên.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số: 141/2020/HSST ngày 30/7/2020 của Tòa án nhân dân Quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh:

- Căn cứ khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ Luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 đối với các bị cáo Nguyễn Ngọc Đ, Bùi Ngọc T2, Huỳnh Tấn Đ1, Đỗ Thanh T, Đặng Duy K, Lưu Minh T3, Trần Hữu P.

Xử phạt các bị cáo:

- Nguyễn Ngọc Đ 09 (chín) tháng tù về tội “Đánh bạc” - Bùi Ngọc T2 09 (chín) tháng tù về tội “Đánh bạc”.

- Huỳnh Tấn Đ1 09 (chín) tháng tù về tội “Đánh bạc”.

- Đỗ Thanh T 09 (chín) tháng tù về tội “Đánh bạc”.

- Đặng Duy K 09 (chín) tháng tù về tội “Đánh bạc”.

- Lưu Minh T3 06 (sáu) tháng tù về tội “Đánh bạc”.

- Trần Hữu P 06 (sáu) tháng tù về tội “Đánh bạc”. Thời hạn tù tính từ ngày bắt các bị cáo chấp hành án - Căn cứ khoản 1 Điều 321; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Mai Văn T1 9 (chín) tháng tù về tội “Đánh bạc”. Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo chấp hành án.

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn tuyên phạt bị cáo Bùi Quang T8 và Nguyễn Hữu T9 về tội “Đánh bạc”; giải quyết về hình phạt bổ sung, vật chứng, án phí, quyền và thời hạn kháng cáo theo luật định.

Sau khi xét xử sơ thẩm:

Ngày 31/7/2020, các bị cáo Nguyễn Ngọc Đ, Bùi Ngọc T2, Huỳnh Tấn Đ1, Đỗ Thanh T, Đặng Duy K, Lưu Minh T3, Trần Hữu P và Mai Văn T1 kháng cáo cùng nội dung xin được giảm nhẹ hình phạt, xin được xử phạt bằng hình phạt tiền là hình phạt chính.

Tại phiên tòa phúc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh sau khi tóm tắt hành vi phạm tội, hậu quả tội phạm mà các bị cáo thực hiện đã nhận định: Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử các bị cáo về tội “Đánh bạc” quy định tại Điều 321 Bộ luật hình sự là phù hợp với hành vi phạm tội của các bị cáo.

Tuy nhiên, bị cáo Nguyễn Ngọc Đ, bị cáo Đỗ Thanh T và bị cáo Mai Văn T1 số tiền dùng để đánh bạc ít, các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, là lao động chính trong gia đình nên cần giảm cho các bị cáo một phần hình phạt.

Các bị cáo Huỳnh Tấn Đ1, bị cáo Lưu Minh T3 và bị cáo Trần Hữu P sử dụng số tiền để đánh bạc rất ít, các bị cáo có nhân thân tốt, phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, có nghề nghiệp ổn định nên không cần xử phạt tù mà xử phạt tiền các bị cáo cũng đủ tác dụng giáo dục răn đe các bị cáo và phòng ngừa chung cho toàn xã hội.

Riêng các bị cáo Bùi Ngọc T2 và Đặng Duy K tại phiên tòa hôm nay không có tình tiết giảm nhẹ gì mới, số tiền đánh bạc cao hơn các bị cáo khác trong vụ án nên mức hình phạt mà Tòa án cấp sơ thẩm xét xử các bị cáo là phù hợp với quy định của pháp luật.

Vì vậy, căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355; Điều 357 của Bộ luật tố tụng hình sự. Đề nghị Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm chấp nhận một phần kháng cáo của các bị cáo Nguyễn Ngọc Đ, Huỳnh Tấn Đ1, Đỗ Thanh T, Lưu Minh T3, Trần Hữu P và Mai Văn T1, sửa bản án sơ thẩm, giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo. Giữ nguyên hình phạt tù đối với bị cáo Bùi Ngọc T2 và Đặng Duy K.

Cụ thể. Đề nghị Hội đồng xét xử xử phạt các bị cáo:

- Bùi Ngọc T2 09 (chín) tháng tù về tội “Đánh bạc”.

- Đặng Duy K 09 (chín) tháng tù về tội “Đánh bạc”.

- Nguyễn Ngọc Đ 06 (sáu) tháng tù về tội “Đánh bạc” - Đỗ Thanh T 06 (sáu) tháng tù về tội “Đánh bạc”.

- Mai Văn T1 06 (sáu) tháng tù về tội “Đánh bạc”.

- Huỳnh Tấn Đ1 30.000.000 (ba mươi triệu) đồng về tội “Đánh bạc”.

- Lưu Minh T3 30.000.000 (ba mươi triệu) đồng về tội “Đánh bạc”.

- Trần Hữu P 20.000.000 (hai mươi triệu) đồng về tội “Đánh bạc”.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật.

Tại phiên tòa phúc thẩm, các bị cáo Nguyễn Ngọc Đ, Mai Văn T1, Bùi Ngọc T2, Huỳnh Tuấn Đ4, Đỗ Thanh T, Đặng Duy K, Lưu Minh T3 và Trần Hữu P khai nhận hành vi phạm tội phù hợp với bản án sơ thẩm đã nêu và đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm xem xét cho các bị cáo được phạt tiền hoặc cải tạo không giam giữ.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an Quận 12, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân Quận 12, Kiểm sát viên, Tòa án nhân dân Quận 12, Thẩm phán trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Tại phiên tòa phúc thẩm ngày hôm nay các bị cáo Nguyễn Ngọc Đ, Mai Văn T1, Bùi Ngọc T2, Huỳnh Tuấn Đ4, Đỗ Thanh T, Đặng Duy K, Lưu Minh T3 và Trần Hữu P thừa nhận hành vi phạm tội như nội dung cáo trạng và bản án sơ thẩm đã nêu. Lời khai của các bị cáo phù hợp biên bản phạm tội quả tang, biên bản kiểm tra, phù hợp với lời khai của các bị cáo tại cơ quan điều tra, lời khai của người làm chứng và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Do vậy có đủ cơ sở để kết luận: Vào 16 giờ 00 phút, ngày 02/ 02/ 2020, tại chỉ số 892, Quốc lộ 1A, tổ 8, khu phố 5, phường Thạch Xuân, Quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh Công an phường Thạnh Xuân, Quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh bắt quả tang Nguyễn Ngọc Đ cùng với Mai Văn T1, Bùi Ngọc T2, Bùi Quang T8, Huỳnh Tuấn Đ4, Đỗ Thanh T, Nguyễn Hữu T9, Đặng Duy K, Lưu Minh T3 và Trần Hữu P đang đánh bài dưới hình thức “Ngầu Hầm” ăn thua bằng tiền thì bị bắt quả tang. Hội đồng xét xử xét thấy hành vi của các bị cáo đã phạm vào tội “Đánh bạc” theo quy định tại khoản 1 Điều 321 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Đối chiếu với quy định của pháp luật nên có căn cứ để xác định các bị cáo Nguyễn Ngọc Đ, Mai Văn T1, Bùi Ngọc T2, Huỳnh Tuấn Đ4, Đỗ Thanh T, Đặng Duy K, Lưu Minh T3 và Trần Hữu P đã phạm tội “Đánh bạc”. Tổng số tiền thu giữ dùng vào việc đánh bạc là 39.350.000 đồng nên phạm tội thuộc trường quy định tại khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự. Tòa án cấp sơ thẩm đã kết tội các bị cáo theo tội danh và điều luật đã nêu là có căn cứ.

Các bị cáo Nguyễn Ngọc Đ, Mai Văn T1, Bùi Ngọc T2, Huỳnh Tuấn Đ4, Đỗ Thanh T, Đặng Duy K, Lưu Minh T3 và Trần Hữu P đều kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt, phạt tiền hoặc cải tạo không giam giữ. Kháng cáo của các bị cáo làm trong hạn luật định là hợp lệ.

Xét kháng cáo của các bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy Toà án cấp sơ thẩm đã áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 51 của Bộ luật hình sự để xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo là phù hợp với quy định của pháp luật. Vì vậy, mức án mà Tòa án cấp sơ thẩm xét xử các bị cáo là thỏa đáng.

Tuy nhiên cần xem xét thêm các tình tiết giảm nhẹ mới cho các bị cáo: Đối với các bị cáo Nguyễn Ngọc Đ, Đỗ Thanh T, Bùi Ngọc T2, Lưu Minh T3 là lao động chính trong gia đình, các bị cáo đều có nghề nghiệp và nơi cư trú ổn định; bị cáo Nguyễn Ngọc Đ, Đỗ Thanh T có con nhỏ sinh năm 2019. Cần xem đây là các tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Giảm nhẹ một phần hình phạt cho các bị cáo, xử phạt các bị cáo hình phạt chính là hình phạt tiền cũng đủ tác dụng giáo dục, răn đe cũng như bảo đảm khả năng thi hành hình phạt của các bị cáo.

Đối với các bị cáo Huỳnh Tấn Đ1, Mai Văn T1, Trần Hữu P, Đặng Duy K đều có nghề nghiệp ổn định; bị cáo Huỳnh Tấn Đ1 có vợ đang mang thai 8 tháng tuổi; bị cáo Mai Văn T1 có ông ngoại tham gia cách mạng, hi sinh trong trận chống càn trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước; bị cáo Đặng Duy K có ông ngoại là người có công với cách mạng, là thương binh 3/4, bị bệnh chết; bị cáo Trần Hữu P có con nhỏ sinh năm 2018; các bị cáo đều có hoàn cảnh gia đình khó khăn, nên cần xem xét áp dụng khoản 2 Điều 51 giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho các bị cáo, xử phạt các bị cáo bằng hình phạt cải tạo không giam giữ cũng đủ giao dục riêng và phòng ngừa chung.

Do hoàn cảnh gia đình các bị cáo Huỳnh Tấn Đ1, Mai Văn T1, Trần Hữu P, Đặng Duy K khó khăn, nên miễn khoản khấu trừ thu nhập khi chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ cho các bị cáo.

Do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Nguyễn Ngọc Đ, Mai Văn T1, Bùi Ngọc T2, Huỳnh Tuấn Đ4, Đỗ Thanh T, Đặng Duy K, Lưu Minh T3 và Trần Hữu P.

Do chấp nhận kháng cáo nên các bị cáo không phải chịu án phí phúc thẩm theo quy định tại Điều 135; khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355; điểm đ khoản 1 Điều 357 của Bộ luật tố tụng hình sự:

Chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Nguyễn Ngọc Đ, Mai Văn T1, Bùi Ngọc T2, Huỳnh Tuấn Đ4, Đỗ Thanh T, Đặng Duy K, Lưu Minh T3 và Trần Hữu P; sửa bản án sơ thẩm số: 141/2020/HSST ngày 30/7/2020 của Tòa án nhân dân Quận 12.

- Căn cứ khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 35 Bộ luật Hình sự đối với các bị cáo Nguyễn Ngọc Đ, Đỗ Thanh T, Bùi Ngọc T2 và Lưu Minh T3.

1. Xử phạt: Nguyễn Ngọc Đ: 40.000.000 (Bốn mươi triệu) đồng nộp vào ngân sách Nhà nước, về tội “Đánh bạc”.

2. Xử phạt: Đỗ Thanh T: 40.000.000 (Bốn mươi triệu) đồng nộp vào ngân sách Nhà nước, về tội “Đánh bạc”.

3. Xử phạt: Bùi Ngọc T2: 40.000.000 (Bốn mươi triệu) đồng nộp vào ngân sách Nhà nước, về tội “Đánh bạc”.

4. Xử phạt: Lưu Minh T3: 30.000.000 (Ba mươi triệu) đồng nộp vào ngân sách Nhà nước, về tội “Đánh bạc”.

- Căn cứ khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 36 Bộ luật Hình sự đối với các bị cáo Huỳnh Tấn Đ1, Trần Hữu P và Đặng Duy K.

5. Xử phạt bị cáo Huỳnh Tấn Đ1 09 (chín) tháng Cải tạo không giam giữ về tội “Đánh bạc”. Thời hạn cải tạo không giam giữ tính từ ngày cơ quan, tổ chức được giao giám sát, giáo dục người bị kết án nhận được quyết định thi hành án và bản sao bản án.

Giao bị cáo Huỳnh Tấn Đ1 cho Ủy ban nhân dân Phường Thới An, Quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh giám sát, giáo dục trong thời gian cải tạo không giam giữ. Trường hợp bị cáo có thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại Điều 100 Luật thi hành án hình sự.

Miễn việc khấu trừ thu nhập cho bị cáo Huỳnh Tấn Đ1.

6. Xử phạt bị cáo Trần Hữu P 06 (sáu) tháng Cải tạo không giam giữ về tội “Đánh bạc”. Thời hạn cải tạo không giam giữ tính từ ngày cơ quan, tổ chức được giao giám sát, giáo dục người bị kết án nhận được quyết định thi hành án và bản sao bản án.

Giao bị cáo Trần Hữu P cho Ủy ban nhân dân Phường Thới An, Quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh giám sát, giáo dục trong thời gian cải tạo không giam giữ. Trường hợp bị cáo có thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại Điều 100 Luật thi hành án hình sự.

Miễn việc khấu trừ thu nhập cho bị cáo Trần Hữu P.

7. Xử phạt bị cáo Đặng Duy K 09 (chín) tháng Cải tạo không giam giữ về tội “Đánh bạc”. Thời hạn cải tạo không giam giữ tính từ ngày cơ quan, tổ chức được giao giám sát, giáo dục người bị kết án nhận được quyết định thi hành án và bản sao bản án.

Giao bị cáo Đặng Duy K cho Ủy ban nhân dân xã Phước Thạnh, huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre giám sát, giáo dục trong thời gian cải tạo không giam giữ. Trường hợp bị cáo có thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại Điều 100 Luật thi hành án hình sự.

Miễn việc khấu trừ thu nhập cho bị cáo Đặng Duy K.

- Căn cứ khoản 1 Điều 321; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 36 Bộ Luật hình sự.

8. Xử phạt bị cáo Mai Văn T1 09 (chín) tháng Cải tạo không giam giữ về tội “Đánh bạc”. Thời hạn cải tạo không giam giữ tính từ ngày cơ quan, tổ chức được giao giám sát, giáo dục người bị kết án nhận được quyết định thi hành án và bản sao bản án.

Giao bị cáo Mai Văn T1 cho Ủy ban nhân dân phường Bình Trị Đông A, quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh giám sát, giáo dục trong thời gian cải tạo không giam giữ. Trường hợp bị cáo có thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại Điều 100 Luật thi hành án hình sự.

Miễn việc khấu trừ thu nhập cho bị cáo Mai Văn T1.

Các bị cáo không phải nộp án phí hình sự phúc thẩm.

Các quyết định khác của bản án hình sự sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị nên có hiệu lực pháp luật.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

337
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 515/2020/HSPT ngày 29/09/2020 về tội đánh bạc

Số hiệu:515/2020/HSPT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về