Bản án 513/2019/HS-ST ngày 07/11/2019 về tội đánh bạc

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ V, TỈNH N

BẢN ÁN 513/2019/HS-ST NGÀY 07/11/2019 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Ngày 07/11/2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân TP V, tỉnh N xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 522/2019/TLST-HS ngày 24/10/2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 614/2019/QĐXXST-HS ngày 25 tháng 10 năm 2019 đối với các bị cáo:

1. Họ và tên: Trương Công N - Sinh ngày 06/08/1989 tại TP V, tỉnh N ; Nơi cư trú: Khối 1, phường Q, TP V, tỉnh N; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: lớp 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Đoàn thể, đảng phái: không; Con ông: Trương Công Th và bà Nguyễn Thị Ngọc H; Vợ: Nguyễn Thị Ngọc H; Con: có 01 con sinh năm 2013; Tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: Không; Bị bắt tạm giữ từ ngày 15/7/2019 đến ngày 21/7/2019 hiện đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú – có mặt tại phiên tòa.

2. Họ và tên: Nguyễn Văn T - Sinh ngày 27/8/1970 tại huyện Đ, tỉnh N; Nơi cư trú: Khối An V, phường H, TP V, tỉnh N; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: lớp 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Đoàn thể, đảng phái: không; Con ông: Nguyễn Văn C và bà Mai Thị Th; Vợ: Lê Thị H; Con: có 02 con, lớn sinh năm 2003, nhỏ sinh năm 2007; Tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: Không; Bị bắt tạm giữ từ ngày 15/7/2019 đến ngày 21/7/2019 hiện đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú – có mặt tại phiên tòa.

3. Họ và tên: Nguyễn Đình Đ - Sinh ngày 12/10/1992 tại huyện D, tỉnh N; Nơi cư trú: Xóm 5, xã D, huyện D, tỉnh N; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: lớp 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Đoàn thể, đảng phái: không; Con ông: Nguyễn Đình T và bà Nguyễn Thị L; Vợ, con: chưa có; Tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: Không; Bị bắt tạm giữ từ ngày 15/7/2019 đến ngày 21/7/2019 hiện đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú – có mặt tại phiên tòa.

4. Họ và tên: Đinh Quốc C - Sinh ngày 19/5/1981 tại TP V, tỉnh N; Nơi cư trú: Khối Y, phường H, TP V, tỉnh N; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: lớp 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Đoàn thể, đảng phái: không; Con ông: Đinh Văn D và bà Nguyễn Thị M; Vợ : Nguyễn Hồng Nh, sinh năm 1991 ; Con: có 02 con, lớn sinh năm 2016, nhỏ sinh năm 2019; Tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: Không; Bị bắt tạm giữ từ ngày 15/7/2019 đến ngày 18/7/2019 hiện đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú – có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 11 giờ 30 phút ngày 15/7/2019 Trương Công N, Nguyễn Văn T, Nguyễn Đình Đ và nam thanh niên tên Q (không rõ lai lịch, địa chỉ) uống café tại quán café “Xứ Nghệ” thuộc khối T, phường H, TP V, tỉnh N. Tại đây cả bốn người rủ nhau đánh bài bằng hình thức đánh “bài binh”, mỗi chi 20.000 đồng. Trước lúc đánh bạc số người trên lấy 02 (hai) bộ bài tú lơ khơ, mỗi bộ gồm 52 quân bài có sẵn tại quán cà phê để sử dụng vào việc đánh bạc. Lúc đầu, N, T, Đ và Q đánh bạc với nhau, còn Đinh Quốc C đến sau, ngồi xem mọi người đánh bạc. N, T, Đ và Q đánh bạc với nhau đến khoảng 12 giờ 30 phút cùng ngày thì Q nghỉ đánh bạc đi về. Ngay lúc đó C vào thay thế Q để đánh bạc với N, T và Đ. Số người trên đánh bạc với nhau đến 14 giờ 00 phút cùng ngày thì bị tổ công tác thuộc Đội Cảnh sát hình sự Công an thành phố V, tỉnh N phát hiện, bắt quả tang. Thu giữ tại chiếu bạc 02 (hai) bộ bài tú lơ khơ, mỗi bộ gồm 52 quân bài. Kiểm tra, thu giữ trong túi quần của Trương Công N số tiền 4.600.000 đồng (Bốn triệu sáu trăm nghìn đồng); thu giữ trong túi quần của Nguyễn Văn T số tiền 1.880.000 đồng (Một triệu tám trăm tám mươi nghìn đồng); thu giữ trong ví của Nguyễn Đình Đ số tiền 7.500.000 đồng (Bảy triệu năm trăm nghìn đồng) và trong túi quần của Đ số tiền 420.000 đồng (Bốn trăm hai mươi nghìn đồng); thu giữ trong túi quần của C số tiền 20.000 đồng (Hai mươi nghìn đồng).

Quá trình điều tra, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố V, tỉnh N đã chứng minh được hình thức đánh "bài binh” của Trương Công N, Nguyễn Văn T, Nguyễn Đình Đ và Đinh Quốc C như sau: Khi vào đánh bạc, mọi người ngồi thành một vòng tròn, theo chiều kim đồng hồ lần lượt các vị trí là N, T, C và Đ. Sử dụng một bộ bài tú lơ khơ bao gồm 52 quân bài, người phát bài xóc kỹ, chia đều cho người chơi mỗi người 13 quân bài. Khi chia bài xong, người chơi xếp phần bài của mình thành 3 phần, phần thứ nhất 5 quân bài gọi là “chi 1”, phần thứ hai 5 quân bài gọi là “chi 2”, phần thứ ba 3 quân bài gọi là “chi 3”. Mỗi “chi” theo thứ tự từ cao đến thấp, từ “chi 1” đến “chi 3”, được quy định là: Thùng phá sảnh, Tứ quý, Cù lũ, Thùng, Sảnh, Sám cô, Thú, Đôi, Mậu thầu. Trong đó: Thùng phá sảnh là trong “chi” có 5 quân bài đồng chất liên tiếp nhau; Tứ quý là trong “chi” có 4 quân bài giống nhau khác chất ghép với 1 quân bài bất kỳ; Cù lũ là trong “chi” có 3 quân bài giống nhau khác chất ghép với 2 quân bài giống nhau khác chất; Thùng là trong “chi” có 5 quân bài bất kỳ đồng chất, Sảnh là trong “chi” có 5 quân bài bất kỳ liên tiếp nhau, Sám cô là trong “chi” có 3 quân bài giống nhau khác chất ghép với 2 quân bài bất kỳ, Thú là trong “chi” có 2 đôi tức là có 2 quân bài giống nhau khác chất ghép với 2 quân bài giống nhau khác chất và 1 quân bài bất kỳ; Đôi là trong “chi” có 2 quân bài giống nhau khác chất ghép với 3 quân bài khác nhau bất kỳ, Mậu thầu là trong “chi” có 5 quân bài khác nhau bất kỳ không thuộc các trường hợp trên. Khi đánh, nếu có người nào “Báo”, tức là người đó có 3 “chi” là 3 cái “Thùng” hoặc là 3 cái “Sảnh” hoặc là trên tay bài có 6 “Đôi” thì sẽ thắng mỗi người chơi là 6 chi bằng 120.000 đồng (Một trăm hai mươi nghìn đồng), nếu có người chơi bắt “Sập làng” tức là thắng 3 người còn lại cả 3 “chi” thì người đó sẽ thắng mỗi người chơi là 10 “chi” bằng 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng). Nếu không có người nào “Báo” thì mỗi người chơi sẽ đưa từ “chi 1” đến “chi 3” ra so với những người cùng chơi. Quy định khi chơi nếu người chơi có “chi” gọi là “Thùng phá sảnh” sẽ thắng các người chơi còn lại trong “chi” đó mỗi người 6 “chi” bằng 120.000 đồng (Một trăm hai mươi nghìn đồng), có “Tứ quý” thì thắng mỗi người chơi 4 “chi” bằng 80.000 đồng (Tám mươi nghìn đồng), có “Cù lũ ở chi thứ 2” sẽ thắng mỗi người chơi 2 “chi” bằng 40.000 đồng (Bốn mươi nghìn đồng), có “Sám cô” ở “chi” thứ 3 sẽ thắng mỗi người chơi 3 “chi” bằng 60.000 đồng (Sáu mươi nghìn đồng). Sau khi so sánh các “chi” với nhau, người chơi sẽ tính tổng mình thắng hay thua bao nhiêu “chi” để thanh toán tiền đánh bạc, một “chi” thua sẽ phải trả cho người thắng 20.000 đồng (Hai mươi nghìn đồng). Sau khi thanh toán tiền xong thì người chơi thắng nhiều “chi” nhất trong ván bài đó sẽ tiếp tục chia bài ở ván tiếp theo.

Số tiền Trương Công N khai sử dụng để đánh bạc là 2.600.000 đồng (Hai triệu sáu trăm nghìn đồng). Quá trình đánh bạc đến khi bị bắt quả tang, N thắng 2.000.000 đồng (Hai triệu đồng). Số tiền 4.600.000 đồng (Bốn triệu sáu trăm nghìn đồng) cất ở trong túi quần bị công an thu giữ.

Số tiền Nguyễn Văn T khai sử dụng để đánh bạc là 2.560.000 đồng (Hai triệu năm trăm sáu mươi nghìn đồng). Quá trình đánh bạc đến khi bị bắt quả tang, T bị thua 680.000 đồng (Sáu trăm tám mươi nghìn đồng). Số tiền 1.880.000 đồng (Một trăm tám trăm tám mươi nghìn đồng) cất ở túi quần bị công an thu giữ.

Số tiền Nguyễn Đình Đ khai sử dụng để đánh bạc là 1.020.000 đồng (Một triệu không trăm hai mươi nghìn đồng). Trước khi đánh bạc, Đ có 8.520.000 đồng (Tám triệu năm trăm hai mươi nghìn đồng), Đ lấy ra số tiền 1.020.000 đồng (Một triệu không trăm hai mươi nghìn đồng) để đánh bạc, số tiền 7.500.000 đồng (Bảy triệu năm trăm nghìn đồng) còn lại Đ cất riêng trong ví không sử dụng để đánh bạc. Quá trình đánh bạc đến khi bị bắt quả tang, Đ bị thua 600.000 đồng (Sáu trăm nghìn đồng). Số tiền 420.000 đồng (Bốn trăm hai mươi nghìn đồng) cất trong túi quần và số tiền 7.500.000 đồng (Bảy triệu năm trăm nghìn đồng) cất ở trong ví bị công an thu giữ.

Số tiền Đinh Quốc C khai sử dụng để đánh bạc là 500.000 đồng (Năm trăm nghìn đồng). Trước khi đánh bạc, C có 500.000 đồng (Năm trăm nghìn đồng), C sử dụng toàn bộ số tiền này để đánh bạc. Quá trình đánh bạc đến khi bị bắt quả tang, C bị thua 480.000 đồng (Bốn trăm tám mươi nghìn đồng). Số tiền 20.000 đồng (Hai mươi nghìn đồng) còn lại cất trong túi quần bị công an thu giữ.

Như vậy, tổng cộng số tiền các bị cáo sử dụng đánh bạc là 6.920.000 đồng (Sáu triệu chín trăm hai mươi nghìn đồng).

Cáo trạng số 546/CT-VKS ngày 23/10/2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố V truy tố các bị cáo: Trương Công N, Nguyễn Văn T, Nguyễn Đình Đ và Đinh Quốc C về tội “Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 321 BLHS.

Tại phiên tòa đại diện Viện Kiểm sát nhân dân TP V giữ quyền công tố vẫn giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị HĐXX:

- Áp dụng khoản 1 Điều 321, các điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51BLHS xử phạt bị cáo: Trương Công N từ 20.000.000 đồng đến 22.000.000 đồng.

- Áp dụng khoản 1 Điều 321, các điểm i, s, v khoản 1, khoản 2 Điều 51 BLHS xử phạt bị cáo Nguyễn Văn T từ 20.000.000 đồng đến 22.000.000 đồng.

- Áp dụng khoản 1 Điều 321, các điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 BLHS xử phạt bị cáo Nguyễn Đình Đ từ 20.000.000 đồng đến 22.000.000 đồng.

- Áp dụng khoản 1 Điều 321, các điểm i, s khoản 1 Điều 51 BLHS xử phạt bị cáo Đinh Quốc C từ 20.000.000 đồng đến 22.000.000 đồng.

Miễn hình phạt bổ sung cho các bị cáo. Về vật chứng: Áp dụng Điều 47 BLHS, khoản 2 Điều 106 BLTTHS tịch thu tiêu hủy 02 bộ bài tu lơ khơ các bi cáo sử dụng làm công cụ phạm tội và tịch thu, nộp ngân sách nhà nước số tiền các bị cáo sử dụng đánh bạc là 6.920.000 đồng. Trả lại cho bị cáo Nguyễn Đình Đ 7.500.000 đồng do không liên quan đến việc phạm tội của các bị cáo nhưng cần phải tiếp tục tạm giữ để đảm bảo thi hành án. Về án phí: Áp dụng khoản 2 điều 136 BLTTHS, điều 23 Nghị quyết số 326 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội buộc các bị cáo phải chịu án phí HSST theo quy định.

Tại phiên tòa, các bị cáo Trương Công N, Nguyễn Văn T, Nguyễn Đình Đ, Đinh Quốc C đều khai nhận về hành vi phạm tội của mình đúng như cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố, không có ý kiến tranh luận gì mà chỉ xin HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1]. Về tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an thành phố V, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố V, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo đều không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Về nội dung:

[2.1]. Tại phiên toà các bị cáo Trương Công N, Nguyễn Văn T, Nguyễn Đình Đ, Đinh Quốc C đều khai nhận: Trong khoảng thời gian từ 11 giờ 30 phút đến 14 giờ 00 phút ngày 15/7/2019 tại quán cà phê “Xứ Nghệ” thuộc khối T, phường H, TP V, tỉnh N, các bị cáo có hành vi đánh bạc bằng hình thức đánh “bài binh”, mỗi chi 20.000 đồng thì bị tổ công tác Đội cảnh sát hình sự Công an TP V, tỉnh N phát hiện, bắt quả tang. Lời khai nhận tội của các bị cáo trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa đều phù hợp với nhau, phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, lời khai của người làm chứng, vật chứng thu giữ và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có tại hồ sơ vụ án. Như vậy đã có đủ cơ sở kết luận: Hành vi sát phạt nhau bằng tiền thông qua hình thức đánh bài “binh” mà các bị cáo Trương Công N, Nguyễn Văn T, Nguyễn Đình Đ, Đinh Quốc C thực hiện đã có đủ yếu tố cấu thành tội “Đánh bạc”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 321 BLHS.

[2.2]. Vụ án thuộc loại ít nghiêm trọng, có đồng phạm nhưng thuộc loại giản đơn, số tiền các bị cáo sử dụng đánh bạc được xác định là 6.920.000 đồng. Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, hành vi đó đã gây mất trật tự trên địa bàn thành phố V nói riêng và trật tự trị an xã hội nói C và còn là nguyên nhân làm phát sinh các loại tội phạm khác. Mặc dù các bị cáo đều biết rõ đánh bạc là một tệ nạn xã hội bị nhà nước nghiêm cấm nhưng do hám lợi bất chính, ý thức chấp hành pháp luật kém nên các bị cáo vẫn ngang nhiên sát phạt nhau, vì vậy cần phải xử lý nghiêm. Xét vai trò và mức độ tham gia của các bị cáo trong vụ án này thấy rằng: Các bị cáo đều tham gia trong cùng một chiếu bạc, mức độ tham gia của các bị cáo tương đương với nhau nên mức án áp dụng đối với các bị cáo cũng tương đương nhau. Xét về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ: Tình tiết tăng nặng: Các bị cáo đều không có tình tiết tăng nặng. Tình tiết giảm nhẹ: Các bị cáo đều được hưởng các tình tiết giảm nhẹ đó là phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải được quy định tại các điểm i, s khoản 1 điều 51 BLHS. Ngoài ra đối với các bị cáo Trương Công N, Nguyễn Văn T, Nguyễn Đình Đ còn được hưởng tình tiết giảm nhẹ là gia đình có công với cách mạng, bố của bị cáo Nguyễn Văn T và mẹ của các bị cáo Trương Công N, Nguyễn Đình Đ được nhà nước tặng thưởng huy chương các loại nên được hưởng tình tiết quy định tại khoản 2 Điều 51 BLHS. Ngoài các tình tiết giảm nhẹ nêu trên bị cáo Nguyễn Văn T còn được hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ đó là “Có thành tích xuất sắc trong công tác”, được Bộ lao động thương binh, xã hội và UBND tỉnh N tặng bằng khen được quy định tại điểm v khoản 1 Điều 51 BLHS. Đối với bị cáo Đinh Quốc C mặc dù không có tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 51 BLHS nhưng xét về thời gian và số tiền tham gia đánh bạc của bị cáo C ít hơn các bị cáo khác trong cùng vụ án nên mức án áp dụng đối với các bị cáo là ngang nhau. Xét thấy chưa cần thiết phải cách ly các bị cáo ra khỏi xã hội mà áp dụng phạt tiền là hình phạt chính như lời đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa là phù hợp, để các bị cáo thấy được chính sách khoan hồng của pháp luật mà cải tạo trở thành người có ích cho xã hội.

[2.3]. Về hình phạt bổ sung: Đã áp dụng phạt tiền là hình phạt chính nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo.

[2.4]. Về xử lý vật chứng: Gồm 02 bộ bài tulơkhơ các bị cáo sử dụng làm công cụ phạm tội cần tịch thu tiêu hủy. Số tiền 6.920.000đ (Sáu triệu chín trăm hai mươi nghìn đồng) các bị cáo sử dụng đánh bạc cần tịch thu, nộp ngân sách nhà nước. Đối với số tiền 7.500.000 đồng thu giữ của bị cáo Nguyễn Đình Đ quá trình điều tra xác định không liên quan đến việc phạm tội nên tuyên trả lại cho bị cáo nhưng cần phải tiếp tục tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

Trong vụ án này theo lời khai của các bị cáo còn có nam thanh niên tên Q, trú tại xã Hưng Tây, huyện Hưng Nguyên, tỉnh N cùng tham gia đánh bạc với các bị cáo. Cơ quan điều tra Công an TP V đã điều tra, xác minh nhưng tại địa bàn xã Hưng Tây không có người nào tên Q có đặc điểm như lời khai của các bị cáo nên không có căn cứ để xử lý.

[2.5]. Về án phí: Các bị cáo Trương Công N, Nguyễn Văn T, Nguyễn Đình Đ, Đinh Quốc C phải chịu án phí HSST theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Các bị cáo Trương Công N, Nguyễn Văn T, Nguyễn Đình Đ, Đinh Quốc C phạm tội "Đánh bạc".

- Căn cứ khoản 1 Điều 321; các điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 35 Bộ luật Hình sự xử phạt: Trương Công N 20.000.000đ (Hai mươi triệu đồng).

- Căn cứ khoản 1 Điều 321; các điểm i, s, v khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 35 BLHS xử phạt: Nguyễn Văn T 20.000.000đ (Hai mươi triệu đồng).

- Căn cứ khoản 1 Điều 321; các điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 35 BLHS xử phạt: Nguyễn Đình Đ 20.000.000đ (Hai mươi triệu đồng).

- Căn cứ khoản 1 Điều 321; các điểm i, s khoản 1 Điều 51, Điều 35 Điều BLHS xử phạt: Đinh Quốc C 20.000.000đ (Hai mươi triệu đồng).

- Về xử lý vật chứng: Căn cứ các điểm a, b khoản 1 Điều 47 BLHS; các điểm a, b khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 BLTTHS: Tịch thu tiêu hủy 02 (hai) bộ bài tulơkhơ các bị cáo sử dụng làm công cụ phạm tội hiện có tại kho vật chứng Chi cục Thi hành án dân sự TP V, có đặc điểm theo phiếu nhập kho số NK 0054 ngày 29/10/2019.

Tịch thu, nộp ngân sách nhà nước số tiền các bị cáo sử dụng đánh bạc là 6.920.000đ (Sáu triệu chín trăm hai mươi nghìn đồng). Trả lại cho bị cáo NguyễnĐình Đ số tiền 7.500.000đ (Bảy triệu năm trăm nghìn đồng) do không liên quan đến việc phạm tội của các bị cáo nhưng cần phải tiếp tục tạm giữ để đảm bảo cho công tác thi hành án. Toàn bộ số tiền trên hiện có tại Kho bạc nhà nước tỉnh N, theo giấy nộp tiền số 0001548 ngày 09/8/2019.

- Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 BLTTHS, Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án: Buộc các bị cáo Trương Công N, Nguyễn Văn T, Nguyễn Đình Đ, Đinh Quốc C mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (07/11/2019) các bị cáo có quyền kháng cáo bản án lên Toà án nhân dân tỉnh N. /.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

179
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 513/2019/HS-ST ngày 07/11/2019 về tội đánh bạc

Số hiệu:513/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Vinh - Nghệ An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 07/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về