Bản án 51/2020/HSST ngày 15/05/2020 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN T C, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 51/2020/HSST NGÀY 15/05/2020 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 15 tháng 5 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện TC mở phiên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 52/2020/TLST-HS ngày 09 tháng 4 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 54/2020/QĐXXST-HS ngày 04 tháng 5 năm 2020 đối với bị cáo:

Trần Anh T; tên gọi khác: Không; sinh năm: 1970 tại huyện TC, tỉnh Sơn La; nơi cư trú: Bản LP, xã PL, huyện TC, tỉnh Sơn La; trình độ học vấn: 12/12; nghề nghiệp: Lao động tự do; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Hữu C, tên gọi khác: Trần Hữu K; Trần Hữu K1, (đã chết) và bà Ngô Thị S, tên gọi khác: Ngô Thị S1 (đã chết); Bị cáo có vợ: Nguyễn Thị P (đã ly hôn) và Lường Thị P, sinh năm: 1986 và 03 con, lớn nhất 32 tuổi, nhỏ nhất 01 tuổi; tiền án; tiền sự: Không có; Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày: 02-01-2020, cho đến nay; Có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 19 giờ ngày 02/01/2020, Tổ công tác Công an huyện TC, tỉnh Sơn La đang làm nhiệm vụ tại khu vực Bản LP, xã PL, huyện TC phát hiện bắt quả tang Trần Anh T (sinh năm 1970), trú tại: Bản LP, xã PL, huyện TC có hành vi mua bán trái phép chất ma túy. Tang vật thu giữ gồm: Một gói ni lon màu trắng bên trong có bột cục màu trắng nghi là heroine (theo T khai là heroine); Một gói nilon màu trắng bên trong có chứa 12 viên nén hình trụ tròn màu hồng nghi là ma túy tổng hợp (theo Tuấn khai là hồng phiến); Tiền NHNN Việt Nam: 1.350.000 đồng, trong đó: 650.000 đồng (theo T khai là tiền do bán ma túy mà có) và 700.000 đồng (theo T khai là tiền bán 01 chiếc xe mô tô của T).

Hồi 08 giờ 30 phút ngày 02/01/2020, tại Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Sơn La đã tiến hành cân tịnh ma túy (gói trong 01 gói nilon màu trắng) thu giữ của Trần Anh T gồm: số bột cục màu trắng nghi là Heroine, khối lượng 0,54 gam, trích rút: 0,05 gam (ký hiệu T1), còn lại: 0,49 gam (ký hiệu T1) nhập kho vật chứng và 12 viên nén màu hồng nghi là ma túy tổng hợp, khối lượng: 1,24 gam; trích rút: 0,10 gam (ký hiệu T3), còn lại: 1,14 gam (ký hiệu T4) nhập kho vật chứng. Đồng thời, Cơ quan CSĐT Công an huyện TC ra Quyết định trưng cầu giám định số: 452, 453 đối với mẫu ký hiệu T1, T3 để giám định chất, loại ma túy và số tiền 1.350.000 đồng. Tại Kết luận giám định số: 162 ngày 03/1/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La kết luận: “Mẫu gửi giám định ký hiệu T1 là ma túy; loại Heroine; Khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,05 gam. Mẫu gửi giám định ký hiệu T3 là ma túy, loại Methamphetamine; Khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,10 gam. Tổng khối lượng ma túy thu giữ là: 0,54 gam, loại Heroine và 1,24 gam, loại khối lượng Methamphetamine” (Mẫu gửi giám định đã sử dụng hết trong quá trình giám định). Tại Kết luận giám định số: 201 ngày 10/1/2020 kết luận: “Số tiền VNĐ gửi giám định là tiền thật” (Hoàn lại toàn bộ số tiền gửi giám định).

Tại Cơ quan CSĐT Công an huyện TC, và tại phiên tòa Trần Anh T đã khai nhận như sau:

Khoảng 02 giờ ngày 01/01/2020, Trần Anh T điều khiển 01 chiếc xe mô tô, không có (biển kiểm soát, nhãn mác, yếm) từ thành phố Sơn La để về nhà ở Bản LP, xã PL, huyện TC. Khi đến khu vực Bản N, xã BP, huyện TC gọi điện cho một người phụ nữ dân tộc Thái tên D (có chồng tên K), trú tại: Bản N, xã TN, huyện TC hỏi mua một lượng ma túy (gồm: 20 viên hồng phiến, một ít heroine) mang về để sử dụng và bán kiếm lời, với giá 1.500.000 đ (Một triệu năm trăm nghìn đồng), D đồng ý. Tiếp đó, T đến nhà D để trao đổi, mua bán 01 gói ma túy gói bằng nilon màu trắng. Mua được ma túy xong, T cầm gói ma túy ở phía bên tay trái, rồi điều khiển xe mô tô đi về. Khi về nhà, T chia gói Heroine thành các gói nhỏ, đều gói bằng nilon màu trắng (T không nhớ bao nhiêu gói). Còn 20 viên hồng phiến T gói bằng nilon màu trắng để sử dụng dần, có ai hỏi mua thì bán kiếm lời. Khoảng 10 giờ 40 phút cùng ngày, T đã bán 01 gói heroine cho Vũ Văn Q (sinh năm 1969), trú tại: Bản Đ, xã PL với giá 200.000 đồng. Khoảng 11 giờ cùng ngày, Tuấn bán một ít heroine và 01 viên hồng phiến cho Đặng Văn T (sinh năm: 1973), trú tại: Bản Đ, xã PL với giá 400.000 đồng. Đến khoảng 11 giờ 20 phút cùng ngày, Tuấn đi bộ đến nhà Lường Văn Đ (sinh năm: 1993), trú tại: Bản P, xã PL và bán cho Đ 01 viên hồng phiến với giá 100.000 đồng, tổng cộng: 700.000 đồng (tiếp đó T chi tiêu vào việc cá nhân số tiền 50.000 đ, còn lại 650.000 đồng). Sau khi bán được ma túy, T cất số heroine và 12 viên hồng phiến đều gói bàng nilon màu trắng vào trong túi quần đằng trước bên trái đang mặc. Đến khoảng 19 giờ cùng ngày, T đang ở nhà một mình thì có Tổ công tác Công an huyện TC đến yêu cầu kiểm tra ma túy, phát hiện, thu giữ cùng tang vật. Sau đó, Tổ công tác áp giải Trần Anh T về UBND xã PL lập Biên bản bắt người phạm tội quả tang như đã nêu trên.

Tại bản Cáo trạng số: 53/CT - VKSTC ngày 09-4-2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện TC, tỉnh Sơn La, đề nghị truy tố bị can Trần Anh T về tội: Mua bán trái phép chất ma túy, theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự;

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện TC, giữ quan điểm truy tố bị cáo Trần Anh T, về tội danh và điều khoản luật áp dụng như trên. Đề nghị HĐXX tuyên:

Tuyên bố bị cáo Trần Anh T phạm tội: Mua bán trái phép chất ma túy.

Áp dụng điểm c khoản 2 Điều 251; điểm r,s khoản 1, khoản 2Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015:

Đề nghị xử phạt bị cáo Trần Anh T mức án từ 07 năm đến 07 năm 06 tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày 02-01-2020 (là ngày bắt tạm giữ, tạm giam đối với bị cáo).

Miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền được quy định tại khoản 5 Điều 251 BLHS năm 2015 cho bị cáo.

Áp dụng Điều 47 BLHS và Điều 106 BLTTHS năm 2015:

- Tuyên tịch thu tiêu hủy: 02 (hai) hai mảnh nilon màu trắng + 01 vỏ phong bì niêm phong vật chứng ban đầu + 0,49 gam chất ma túy, loại Heroine (ký hiệu T2) + 11 viên nén hình trụ tròn màu hồng là ma túy, loại Methamphetamine, khối lượng: 1,14 gam (ký hiệu T4). Các vật chứng được cho vào cùng một phong bì niêm phong, dán giấy niêm phong của Công an tỉnh Sơn La, có số seri: 024129, mặt trước ghi: “Vật chứng nhập kho vụ Trần Anh T- Mua bán trái phép chất ma túy, bắt ngày 01/1/2020”

- Tuyên tịch thu sung vào ngân sách nhà nước:

+ Tiền NHNN Việt Nam 650.000đ (sáu trăm năm mươi nghìn đồng) được đựng trong một 01 hòm tôn màu trắng, kích thước 27x20x12 cm và đóng nắp khóa hòm bằng khóa sắt màu vàng nhãn hiệu VIỆT NHẬT. Sau đó, dùng băng dính trong suốt dán giấy niêm phong có đầy đủ chữ ký của các thành phần tham gia niêm phong và có hai hình dấu đỏ của Cơ quan CSĐT Công an huyện TC, tỉnh Sơn La (Giấy niêm phong không bị rách; không bị mất, biến dạng các thông tin ghi trên giấy niêm phong) đè lên phần mép mở hòm. Tại phần mặt trên nắp hòm dùng băng dính trong suốt dán 01 tờ giấy trắng kích thước 15 cm x 04 cm ghi dòng chữ: “Vật chứng vụ án Trần Anh T - Mua bán trái phép chất ma túy bắt ngày 01/1/2020”.

+ 01 (Một) chiếc điện thoại di động, nhãn hiệu VIVO, vỏ màu đen pha đỏ, số IMEI 1: 860062047831838; số IMEI2: 860062047831820, đã qua sử dụng.

- Tuyên tạm giữ để đảm bảo việc thi hành án số tiền: Tiền NHNN Việt Nam 700.000đ (bảy trăm nghìn đồng) được đựng trong một 01 hòm tôn màu trắng, kích thước 27x20x12 cm và đóng nắp khóa hòm bằng khóa sắt màu vàng nhãn hiệu VIỆT NHẬT. Sau đó, dùng băng dính trong suốt dán giấy niêm phong có đầy đủ chữ ký của các thành phần tham gia niêm phong và có hai hình dấu đỏ của Cơ quan CSĐT Công an huyện TC, tỉnh Sơn La (Giấy niêm phong không bị rách; không bị mất, biến dạng các thông tin ghi trên giấy niêm phong) đè lên phần mép mở hòm. Tại phần mặt trên nắp hòm dùng băng dính trong suốt dán 01 tờ giấy trắng kích thước 15 cm x 04 cm ghi dòng chữ: “Vật chứng vụ án Trần Anh T - Mua bán trái phép chất ma túy bắt ngày 01/1/2020”.

Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Bị cáo Trần Anh T phải chịu án phí HSST là 200.000đ.

Tại phiên tòa bị cáo Trần Anh T có ý kiến: Thừa nhận vào ngày 01/01/2020, Trần Anh T đã có hành vi mua bán trái phép 02 chất ma túy cho 03 đối tượng: Vũ Văn Q, Đặng Văn T, Lường Văn Đ được tổng số tiền 700.000 đồng (trong đó: Q 100.000 đ; T 400.000 đ; Đ 100.000 đ). Khi bị bắt quả tang, T bị thu giữ số ma túy còn lại, tổng khối lượng: 1,78 gam (gồm: 0,54 gam loại Heroine và 1,24 gam loại Methamphetamine) nhằm mục đích kiếm lời. Hành vi trên của bị cáo đã phạm vào tội Mua bán trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm c khoản 2, Điều 251 BLHS. Nay bị cáo đã biết tội, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Lời nói sau cùng của bị cáo Trần Anh T: Nhất trí với lời luận tội của đại diện Viện kiểm sát đề nghị truy tố, xét xử bị cáo về tội Mua bán trái phép chất ma túy. Nay bị cáo đã thực sự nhận ra lỗi lầm, bị cáo rất ân hận, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để bị cáo sớm trở về hòa nhập với với gia đình và xã hội, bị cáo xin được miễn phạt bổ sung.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an huyện TC, tỉnh Sơn La, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện TC, tỉnh Sơn La, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.

[2] Về nội dung: Vào ngày 01/01/2020, Trần Anh T đã có hành vi mua bán trái phép 02 chất ma túy cho 03 đối tượng: Vũ Văn Q, Đặng Văn T, Lường Văn Đ được tổng số tiền 700.000 đồng (trong đó: Q 100.000 đ; T 400.000 đ; Đ 100.000 đ). Khi bị bắt quả tang, Trần Anh T bị thu giữ số ma túy còn lại, tổng khối lượng: 1,78 gam (gồm: 0,54 gam loại Heroine và 1,24 gam loại Methamphetamine) nhằm mục đích kiếm lời bán kiếm lời thu lợi bất chính là vi phạm pháp luật. Hội đồng xét xử xét thấy bị cáo là những người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự để nhận thức được hành vi mua bán, tàng trữ trái phép chất ma túy là nguy hiểm cho xã hội, bị pháp luật nghiêm cấm nhưng vẫn cố ý thực hiện nhằm mục đích thu lợi bất chính cho bản thân. Xét lời khai nhận của bị cáo phù hợp với vật chứng thu giữ, Kết luận giám định đối với vật chứng là chất ma túy và các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Trên cơ sở đó đã đủ căn cứ kết luận bị cáo Trần Anh Tã phạm vào tội: Mua bán trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự. Như quan điểm luận tội của Viện kiểm sát nhân dân huyện TC tại phiên tòa là có căn cứ, đúng pháp luật.

Tại Điều 251 Bộ luật hình sự năm 2015 quy định:

“1.Người nào mua bán trái phép chất ma túy, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:

a) ....................................................;

c) Đối với 02 người trở lên”.

“5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”.

[3] Xét tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội bởi: Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức rõ hành vi Mua bán trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật nhưng vẫn phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp. Hành vi của bị cáo đã xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý của nhà nước về các chất ma túy và là nguyên nhân làm gia tăng những tệ nạn xã hội và tội phạm hình sự, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến trật tự an toàn xã hội và an ninh quốc gia. Tội phạm bị cáo thực hiện thuộc trường hợp rất nghiêm trọng, do đó cần phải áp dụng một hình phạt nghiêm khắc, cách ly bị cáo ra ngoài xã hội một thời gian tương xứng với tích chất mức độ hành vi phạm tội, với mục đích trừng trị, răn đe, giáo dục và cải tạo bị cáo thành những người công dân tốt và có ích cho xã hội.

[4] Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không.

[5] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử tại phiên tòa ngày hôm nay bị cáo đã ăn năn hối cải, thành khẩn khai báo và tự thú về hành vi phạm tội của mình. Ngoài ra bị cáo còn có bố đẻ là ông Trần Hữu Côi được tặng thưởng huân chương kháng chiến chống Mỹ cứu nước hạng ba. Đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm r, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 BLHS năm 2015.

[6] Xét nhân thân bị cáo là người chưa có tiền án, tiền sự, là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự. Bị cáo biết rõ tác hại của ma túy, nhưng do hám lợi nên bất chấp pháp luật cố tình phạm tội rất nghiêm trọng nên cần có mức án tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo mới đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật trong việc đấu tranh với các tệ nạn ma túy. Cần cách ly bị cáo ra ngoài xã hội một thời gian mới đủ điều kiện cải tạo, giáo dục bị cáo để trở thành người công dân tốt, có ích cho xã hội.

[7] Bị cáo đang bị tạm giam, cần tiếp tục giam giữ bị cáo trong hạn 45 ngày, kể từ ngày tuyên án theo quy định tại khoản 1, 3 Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự.

[8] Đối với hình phạt bổ sung được quy định tại khoản 5 Điều 251 Bộ luật hình sự. Căn cứ vào kết quả xác minh và tại phiên tòa xác định được bị cáo không có tài sản và khả năng thi hành nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo.

[9] Xử lý vật chứng:

- Đối với 02 (hai) hai mảnh nilon màu trắng + 01 vỏ phong bì niêm phong vật chứng ban đầu + 0,49 gam chất ma túy, loại Heroine (ký hiệu T2) + 11 viên nén hình trụ tròn màu hồng là ma túy, loại Methamphetamine, khối lượng: 1,14 gam (ký hiệu T4). Các vật chứng được cho vào cùng một phong bì niêm phong, dán giấy niêm phong của Công an tỉnh Sơn La, có số seri: 024129, mặt trước ghi: “Vật chứng nhập kho vụ Trần Anh T - Mua bán trái phép chất ma túy, bắt ngày 01/1/2020”. HĐXX xét thấy là vật nhà nước cấm tàng trữ lưu hành và không còn giá trị sử dụng cần áp dụng khoản 1 Điều 47 BLHS và Điều 106 BLTTHS để tuyên tịch thu tiêu hủy.

- Đối với Tiền NHNN Việt Nam 650.000đ (sáu trăm năm mươi nghìn đồng) được đựng trong một 01 hòm tôn màu trắng, kích thước 27x20x12 cm và đóng nắp khóa hòm bằng khóa sắt màu vàng nhãn hiệu VIỆT NHẬT. Sau đó, dùng băng dính trong suốt dán giấy niêm phong có đầy đủ chữ ký của các thành phần tham gia niêm phong và có hai hình dấu đỏ của Cơ quan CSĐT Công an huyện TC, tỉnh Sơn La (Giấy niêm phong không bị rách; không bị mất, biến dạng các thông tin ghi trên giấy niêm phong) đè lên phần mép mở hòm. Tại phần mặt trên nắp hòm dùng băng dính trong suốt dán 01 tờ giấy trắng kích thước 15 cm x 04 cm ghi dòng chữ: “Vật chứng vụ án Trần Anh T- Mua bán trái phép chất ma túy bắt ngày 01/1/2020” và 01 (Một) chiếc điện thoại di động, nhãn hiệu VIVO, vỏ màu đen pha đỏ, số IMEI 1: 860062047831838; số IMEI 2: 860062047831820, đã qua sử dụng. HĐXX xét thấy là phương tiện phạm tội và là tiền do phạm tội mà có, cần áp dụng Điều 106 BLTTHS để tuyên tịch thu nộp ngân sách nhà nước.

- Đối với Tiền NHNN Việt Nam 700.000đ (bảy trăm nghìn đồng) được đựng trong một 01 hòm tôn màu trắng, kích thước 27x20x12 cm và đóng nắp khóa hòm bằng khóa sắt màu vàng nhãn hiệu VIỆT NHẬT. Sau đó, dừng băng dính trong suốt dán giấy niêm phong có đầy đủ chữ ký của các thành phần tham gia niêm phong và có hai hình dấu đỏ của Cơ quan CSĐT Công an huyện TC, tỉnh Sơn La (Giấy niêm phong không bị rách; không bị mất, biến dạng các thông tin ghi trên giấy niêm phong) đè lên phần mép mở hòm. Tại phần mặt trên nắp hòm dùng băng dính trong suốt dán 01 tờ giấy trắng kích thước 15 cm x 04 cm ghi dòng chữ: “Vật chứng vụ án Trần Anh T - Mua bán trái phép chất ma túy bắt ngày 01/1/2020”. Là tiền của bị cáo do bán tài sản của mình mà có HĐXX xét thấy không liên quan tới vụ án cần tuyên tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

[10] Đối với nguồn gốc ma túy (Heroine, Methamphetamine), Trần Anh T khai mua của một người phụ nữ dân tộc Thái tên D (có chồng tên K), trú tại: Bản N, xã PL, huyện TC với giá 1.500.000 đồng (Năm trăm nghìn đồng) vào ngày 01/1/2020. Mở rộng vụ án, Cơ quan CSĐT Công an huyện TC đã thi hành Lệnh khám xét khẩn cấp số: 474 ngày 02/1/2019 đối với: Chỗ ở, đồ vật, tài sản, thư tín của Lò Thị D (sinh năm: 1965), có địa chỉ như trên. Kết quả: “Không tạm giữ đồ vật, tài liệu gì liên quan đến vụ án”. Quá trình điều tra, xác định hiện D không có mặt tại nơi cư trú, gia đình và chính quyền địa phương không biết D đi đâu, làm gì. Do vậy, Cơ quan điều tra sẽ có hình thức xử lý sau.

[11] Đối với hành vi Trần Anh T khai mua ma túy của Lò Thị D lần đầu tiên, quá trình điều tra xác định T không nhớ thời gian, số tiền mua bán, khối lượng ma túy cụ thể. Do vậy, Cơ quan CSĐT Công an huyện TC không đủ căn cứ điều tra, xử lý Tuân và Diêu về hành vi mua bán trái phép chất ma túy lần trước đó.

[12] Đối với hành vi bán ma túy lần thứ nhất của Trần Anh T cho mỗi đối tượng Vũ Văn Q, Đặng Văn T, Lường Văn Đ. Quá trình điều tra xác định, T và Q, T, Đ đều không nhớ thời gian, số tiền mua bán, khối lượng ma túy cụ thể. Do vậy, Cơ quan CSĐT Công an huyện TC không đủ căn cứ điều tra, xử lý T về hành vi mua bán trái phép chất ma túy lần thứ nhất cho các đối tượng Q, T, Đ.

[13] Đối với Vũ Văn Q, Đặng Văn T, Lường Văn Đ là 03 đối tượng mua ma túy của Trần Anh T để sử dụng vào ngày 01/01/2020. Quá trình điều tra, xác định Q, T, Đ thừa nhận việc mua ma túy của T, phù hợp với lời khai của T. Do vậy, Cơ quan CSĐT Công an huyện TC đã ra Quyết định xử lý hành chính (phạt tiền), về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy là có căn cứ đúng pháp luật.

[14] Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Bị cáo Trần Anh T phải chịu án phí HSST là 200.000đ.

[15] Về quyền kháng cáo: Bị cáo Trần Anh T có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án theo quy định tại các Điều 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh và hình phạt

Căn cứ điểm c khoản 2 Điều 251; các điểm r, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự:

- Tuyên bố bị cáo Trần Anh T phạm tội: Mua bán trái phép chất ma túy;

- Xử phạt bị cáo Trần Anh T 07 (bảy) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt được tính từ ngày 02-01-2020 (là ngày bắt tạm giữ, tạm giam đối với bị cáo).

Bị cáo đang bị tạm giam, cần tiếp tục giam giữ các bị cáo trong hạn 45 ngày, kể từ ngày tuyên án theo quy định tại khoản 1, 3 Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự 2015.

2. Về vật chứng: Căn cứ Điều 47 BLHS và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 tuyên:

- Tuyên tịch thu tiêu hủy: 02 (hai) hai mảnh nilon màu trắng + 01 vỏ phong bì niêm phong vật chứng ban đầu + 0,49 gam chất ma túy, loại Heroine (ký hiệu T2) + 11 viên nén hình trụ tròn màu hồng là ma túy, loại Methamphetamine, khối lượng: 1,14 gam (ký hiệu T4). Các vật chứng được cho vào cùng một phong bì niêm phong, dán giấy niêm phong của Công an tỉnh Sơn La, có số seri: 024129, mặt trước ghi: “Vật chứng nhập kho vụ Trần Anh T- Mua bán trái phép chất ma túy, bắt ngày 01/1/2020”

- Tuyên tịch thu sung vào ngân sách nhà nước:

+ Tiền NHNN Việt Nam 650.000đ (sáu trăm năm mươi nghìn đồng) được đựng trong một 01 hòm tôn màu trắng, kích thước 27x20x12 cm và đóng nắp khóa hòm bằng khóa sắt màu vàng nhãn hiệu VIỆT NHẬT. Sau đó, dùng băng dính trong suốt dán giấy niêm phong có đầy đủ chữ ký của các thành phần tham gia niêm phong và có hai hình dấu đỏ của Cơ quan CSĐT Công an huyện TC, tỉnh Sơn La (Giấy niêm phong không bị rách; không bị mất, biến dạng các thông tin ghi trên giấy niêm phong) đè lên phần mép mở hòm. Tại phần mặt trên nắp hòm dùng băng dính trong suốt dán 01 tờ giấy tráng kích thước 15 cm x 04 cm ghi dòng chữ: “Vật chứng vụ án Trần Anh T- Mua bán trái phép chất ma túy bắt ngày 01/1/2020”.

+ 01 (Một) chiếc điện thoại di động, nhãn hiệu VIVO, vỏ màu đen pha đỏ, số IMEI 1: 860062047831838; số IMEI2: 860062047831820, đã qua sử dụng.

- Tuyên tạm giữ để đảm bảo việc thi hành án số tiền: Tiền NHNN Việt Nam 700.000đ (bảy trăm nghìn đồng) được đựng trong một 01 hòm tôn màu trắng, kích thước 27x20x12 cm và đóng nắp khóa hòm bằng khóa sắt màu vàng nhãn hiệu VIỆT NHẬT. Sau đó, dùng băng dính trong suốt dán giấy niêm phong có đầy đủ chữ ký của các thành phần tham gia niêm phong và có hai hình dấu đỏ của Cơ quan CSĐT Công an huyện TC, tỉnh Sơn La (Giấy niêm phong không bị rách; không bị mất, biến dạng các thông tin ghi trên giấy niêm phong) đè lên phần mép mở hòm. Tại phần mặt trên nắp hòm dùng băng dính trong suốt dán 01 tờ giấy trắng kích thước 15 cm x 04 cm ghi dòng chữ: “Vật chứng vụ án Trần Anh T - Mua bán trái phép chất ma túy bắt ngày 01/1/2020”.

3. Án phí:

Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Bị cáo Trần Anh T phải chịu án phí HSST là 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng).

4. Quyền kháng cáo

Căn cứ Điều 331, 333 BLTTHS năm 2015: Bị cáo Trần Anh T có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

220
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 51/2020/HSST ngày 15/05/2020 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:51/2020/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thuận Châu - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 15/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về