Bản án 51/2020/HS-ST ngày 04/11/2020 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ KỲ ANH, TỈNH HÀ TĨNH

BẢN ÁN 51/2020/HS-ST NGÀY 04/11/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 04 tháng 11 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Kỳ Anh xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 51/2020/TLST-HS ngày 14-10- 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 49/2020/QĐXXST-HS ngày 21- 10-2020 đối với bị cáo:

Họ và tên: Lê Văn H; tên gọi khác: Không; giới tính: Nam; sinh ngày 08 tháng 7 năm 1994; quê quán: phường X, thị xã Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh; trú quán và chỗ ở hiện nay: Tổ dân phố X, phường X, thị xã Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh; dân tộc: Kinh; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Không; trình độ văn hóa: Lớp 12/12; nghề nghiệp: Lao động tự do; chức vụ, đoàn thể, đảng phái: Quần chúng; con ông: Lê Văn X (Đã chết); con bà: Trịnh Thị H, sinh năm: 1962; Anh, chị, em ruột: Có 03 người, bị cáo là con thứ hai; vợ: Trần Thị Th, sinh năm 1998; nghề nghiệp: Lao động tự do; trú quán tại Tổ dân phố X, phường X, thị xã Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh; con: 01 đứa, sinh năm 2017; tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: Ngày 12/10/2020, bị khởi tố bị can về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo Quyết định khởi tố bị can số 122/CQĐT ngày 12/10/2020 của Cơ quan điều tra Công an thị xã Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh và bị cáo đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Hà Tĩnh về tội “lừa đảo chiếm đoạt tài sản” từ ngày 12-10-2020 đến nay. (Có mặt)

* Bị hại: Ông Lê Xuân Tr, sinh năm: 1980; nghề nghiệp; Buôn bán; Địa chỉ: Tổ dân phố Y, phường Y, thị xã Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh. (Có mặt)

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Bà Lê Thị T, sinh năm: 1960; Nghề nghiệp: Lao động tự do Địa chỉ: Tổ dân phố X, phường X, thị xã Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh. (Có mặt)

2. Ông Trần Xuân Đ, sinh năm: 1970; Nghề nghiệp: Làm ruộng Địa chỉ: Tổ dân phố X, phường X, thị xã Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh.(Có mặt)

3. Trần Thị Th, sinh năm 1998; Nghề nghiệp: Công nhân Địa chỉ: Tổ dân phố X, phường X, thị xã Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh. (Có mặt)

* Người làm chứng

1. Ông Hoàng Đình Th, sinh năm: 1972; địa chỉ: Tổ dân phố Y, phường Y, thị xã Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh. (Vắng mặt)

2. Ông Lê Xuân Th1, sinh năm: 1994; địa chỉ: Tổ dân phố X, phường X, thị xã Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh. (Có mặt)

3. Ông Lê Văn Ch, sinh năm: 1997; địa chỉ: Tổ dân phố X, phường X, thị xã Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh. (Vắng mặt)

4. Ông Sử Hữu T; địa chỉ: Tổ dân phố Z, phường Z, thị xã Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh.(Vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Ngày 14/6/2020, anh Lê Xuân Tr thả cả đàn trâu ăn cỏ tại khu vực Đồng Trén, thuộc tổ dân phố Nam Phong, phường Kỳ Thịnh, thị xã Kỳ Anh , tỉnh Hà Tĩnh (trâu thả rông, không lùa về nhà mà thỉnh thoảng chủ trâu đi kiểm tra). Đến chiều ngày 28/6/2020, Lê Văn H đi từ nhà lên trang trại của mình, khi đi qua khu vực Đồng Trén thì thấy một con trâu đực màu nâu đen đang ăn cỏ ở cánh đồng nhưng không có người trông giữ nên nảy sinh ý định bắt trộm. Do con trâu có dây thừng đang buộc vào mũi, nên Lê Văn H đến cầm dây thừng dắt trâu về và nuôi trâu tại trang trại của mình, ở tổ dân phố X, phường X, thị xã Kỳ Anh. Khoảng 02 tháng sau, Lê Văn H thông báo có con trâu của mình cần bán, nên sáng ngày 18/8/2020, bà Lê Thị T ở tổ dân phố X, phường X, thị xã Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh đến mua của Lê Văn H con trâu mà Lê Văn H trộm cắp nói trên, với giá 27.000.000 đồng lấy tiền chi tiêu trong gia đình. Khi bán trâu, Lê Văn H nói dối là trâu của mình nên bà Lê Thị T không biết trâu do trộm cắp mà có.

Đến gần tối ngày 28/6/2020, anh Lê Xuân Tr đến khu vực Đồng Trén để kiểm tra trâu thì phát hiện bị mất con trâu đực màu nâu đen, 03 năm tuổi nên tổ chức tìm kiếm. Đến ngày 22/8/2020, anh Lê Xuân Tr phát hiện con trâu của mình đang ở nhà bà Lê Thị T nên trình báo Công an thị xã Kỳ Anh. Qua lời khai của bà Lê Thị T, Cơ quan điều tra Công an thị xã Kỳ Anh triệu tập Lê Văn H đến làm việc và Lê Văn H đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

Con trâu đực màu nâu đen, 03 năm tuổi mà Lê Văn H trộm cắp là của anh Lê Xuân Tr, sinh năm 1980, ở tổ dân phố Y, phường Y, thị xã Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh, trâu thả ăn cỏ ở khu vực Đồng Trén, thuộc tổ dân phố Nam Phong, phương Kỳ Thịnh, thị xã Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh thì bị mất. Theo kết quả định giá của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự, thì con trâu của anh Lê Xuân Tr bị Lê Văn H trộm cắp trị giá 26.000.000 đồng.

Với hành vi trên, Cáo trạng số 55/CT–VKSNDTXKAngày 12 tháng 10 năm 2020, Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Kỳ Anh đã truy tố bị cáo Lê Văn H về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, Bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản Cáo trạng đã nêu.

Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Kỳ Anh vẫn giữ nguyên quyết định truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Lê Văn H phạm tội “Trộm cắp tài sản”; đề nghị áp dụng khoản  1 Điều 173; điểm b, i, s khoản 1 và khoản 2, Điều 51 Bộ luật hình sự, xử phạt Lê Văn H mức án từ 12 đến 15 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày thi hành án; Về dân sự: Không; Về vật chứng :Không; bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Người bị hại ông Lê Xuân Tr trình bày: ông đã nhận lại con trâu của mình bị mất và đồng thời Lê Văn H đã bồi thường 2.000.000 đồng tiền chi phí tìm kiếm trâu nên ông Trường không có yêu cầu gì thêm về bồi thường thiệt hại về dân sự và xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan bà Lê Thị T trình bày: Ngày 18/8/2020 bà mua của bị cáo Lê Văn H 01 con trâu với giá 27.000.000 đồng tại trại của ông Trần Xuân Đ (bố vợ của Lê Văn H) ở Tổ dân phố Trường Sơn, phường X, thị xã Kỳ Anh. Khi trao đổi mua bán trâu chỉ bằng miệng chứ không lập giấy tờ mua bán. Khi mua con trâu bà T không biết được đó là trâu do bị cáo H trộm cắp mà có. Sau khi biết được con trâu do bị cáo H trộm cắp của người khác bà T đã đưa con trâu giao nộp cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Kỳ Anh để trả lại cho chủ sở hữu. Hiện nay, bà T đã nhận lại số tiền 27.000.000 đồng bán trâu từ Lê Văn H nên bà không có yêu cầu gì thêm về bồi thường thiệt hại dân sự.

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan bà Trần Thị Th trình bày: Bà là vợ của bị cáo Lê Văn H. Khi thấy chồng đem trâu về cột ở nhà, bà Th có hỏi nguồn gốc trâu thì nghe chồng nói dối mua trâu của anh Long dưới làng. Vợ chồng nuôi con trâu được khoảng gần 02 tháng thì anh H nói bán để lấy tiền trả thức ăn gia súc và mua trâu mới. Sau đó, vợ chồng tôi bán con trâu cho bà Lê Thị T với giá 27.000.000 đồng và có bớt lại cho bà T 100.000 đồng. Số tiền bán trâu H đưa hết cho bà Th cất giữ. Bà đã dùng số tiền này để trả cho bố đẻ là ông Trần Xuân Đ số tiền 10.000.000 đồng.Số tiền bán trâu, hiện nay đã trả lại hết cho bà Lê Thị T. Bà hoàn toàn không biết được tài sản đó do chồng bà phạm tội mà có.

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan ông Trần Xuân Đ trình bày: Ông là bố vợ của bị cáo H. Hiện tại, ông cho hai vợ chồng con gái (H - Th) mượn trang trại ở tổ dân phố X, phường X, thị xã Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh để sinh sống và chăn nuôi, trồng trọt.Ngày 29/6/2020 ông có lên trại để thả bò như thường lệ thì thấy có con trâu được được buộc ở trại ông có hỏi vợ chồng con gái nguồn gốc con trâu thì được H cho biết “Trâu mới mua hôm qua ở dưới làng”. Sau một thời gian, ông được con gái (Th) trả 10.000.000 đồng mà trước đó vợ chồng đã vay để mua vịt giống và cám vịt. Khi Th trả tiền cho ông, Th cũng không nói rõ số tiền đó do bán trâu mà có mà ông nghĩ do con gái ông bán vịt để trả.

Lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình, thành khẩn khai báo và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thị xã Kỳ Anh, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Kỳ Anh, kiểm sát viên quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người làm chứng không có ý kiến gì khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.

Tại phiên tòa, bị cáo Lê Văn H khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản Cáo trạng truy tố. Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, do đó có đủ cơ sở kết luận: Chiều ngày 28/6/2020, trên đường đi lên trang trại của mình, thấy một con trâu đực màu nâu đen 03 năm tuổi, của anh Lê Xuân Tr, trị giá 26.000.000 đồng đang ăn cỏ tại khu vực Đồng Trén, thuộc Tổ dân phố Nam Phong, phường X, thị xã Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh không có người trông giữ, nên Lê Văn H bắt trộm và đưa về nuôi tại trang trại của mình. Đến ngày 18/8/2020, Lê Văn H bán con trâu trộm cắp cho bà Lê Thị T lấy tiền chi tiêu trong gia đình. Hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản là 01 con Trâu trị giá 26.000.000đồng của bị cáo Lê Văn H đã phạm vào tội Trộm cắp tài sản theo quy định tại Khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự. Vì vậy, Bản cáo trạng số 55/CT-VKS- TXKA ngày 12-10-2020 của Viện kiển sát nhân dân thị xã Kỳ Anh truy tố, đề nghị xét xử bị cáo về tội danh, điều luật quy định như trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ, làm mất trật tự trị an xã hội, gây tâm lý lo lắng trong quần chúng nhân dân nên cần phải xử lý nghiêm trước pháp luật nhằm răn đe, giáo dục các bị cáo và phòng ngừa chung đối với xã hội.

Trong vụ án này, đối với người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Lê Thị T người mua con trâu do bị cáo phạm tội mà có; bà Trần Thị Th người trực tiếp chăm sóc con trâu và cất giữ số tiền sau khi bị cáo H bán trâu; ông Trần Xuân Đ được bà Trần Thị Th trả 10.000.000 đồng từ số tiền bán trâu mà có. Tuy nhiên, bà Lê Thị T, bà Trần Thị Th và ông Trần Xuân Đ không biết tài sản do bị cáo Lê Văn H trộm cắp mà có nên không phải chịu trách nhiệm hình sự.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo thành khẩn khai báo; Tự nguyện bồi thường thiệt hại; phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; người bị hại xin giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo nên được hưởng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điểm b, i, s, Khoản 1 và Khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự;

Xét hành vi, tính chất mức độ phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo, Hội đồng xét xử thấy rằng: Tuy Bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhưng trong quá trình giải quyết, xét xử vụ án bị cáo H lại phạm tội mới, đã bị Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an thị xã Kỳ Anh khởi tố bị can và khởi tố vụ án về hành vi “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Chứng tỏ bị cáo Lê Văn H coi thường pháp luật nên cần phải lên cho bị cáo một mức án nghiêm khắc và cách ly bị cáo ra ngoài xã hội một thời gian để răn đe, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội. Vì vậy, mức án mà vị đại diện Viện kiểm sát đề nghị tại phiên tòa hôm nay là có căn cứ, phù hợp với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo.

Về vật chứng: Xét vật chứng 01 con trâu đực màu nâu đen, 3 năm tuổi, cân nặng 400 kg do bà Lê Thị T giao nộp, quá trình điều tra Cơ quan điều tra Công an thị xã Kỳ Anh đã trả lại cho anh Lê Xuân Tr là chủ sở hữu theo đúng trình tự thủ tục luật định nên Hội đồng xét xử miễn xét.

Xét số tiền bị cáo bán Trâu là số tiền thu lợi bất chính do hành vi phạm tội mà có, tuy nhiên bị cáo đã trả số tiền bán trâu đó cho bà Lê Thị T, do đó không tịch thu nộp ngân sách Nhà nước với số tiền trên.

Về dân sự: Trong quá trình điều tra, bị cáo Lê Văn H đã bồi thường 27.000.000 đồng cho bà Lê Thị T và bồi thường 2.000.000 đồng tiền chi phí tìm kiếm trâu cho anh Lê Xuân Tr. Người bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không có yêu cầu gì thêm về bồi thường thiệt hại nên Hội đồng xét xử miễn xét.

Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Bị cáo, người bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bán án trong hạn luật định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Khoản 1Điều 173; Điểm b, i, s, khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự;

Căn cứ Khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 3, Khoản 1 Điều 21; Điểm a Khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 và mục A Danh mục án phí, lệ phí Tòa án, ban hành kèm theo Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội;

Tuyên xử:

1. Tuyên bố: Bị cáo Lê Văn H phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

2. Về hình phạt:Xử phạt Lê Văn H 15 (Mười lăm) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày thi hành án.

3. Về án phí: Bị cáo phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí Hình sự sơ thẩm.

4. Bị cáo, người bị hại được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi nghĩa vụ, liên quan được quyền kháng cáo phần liên quan đến quyền lợi của mình trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

262
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 51/2020/HS-ST ngày 04/11/2020 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:51/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Kỳ Anh - Hà Tĩnh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 04/11/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về