TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THẠCH THÀNH, TỈNH THANH HOÁ
BẢN ÁN 51/2020/HNGĐ-ST NGÀY 30/09/2020 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON
Ngày 30 tháng 9 năm 2020, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Thạch Thành, tỉnh Thanh Hoá xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 128/2020/TLST-HNGĐ ngày 13 tháng 7 năm 2020 về việc: “Ly hôn, tranh chấp nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 48/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 14 tháng 9 năm 2020, giữa các đương sự:
-Nguyên đơn: Chị Quách Thị L; Sinh năm: 1993
Địa chỉ: Thôn B, xã T, huyện T, tỉnh Thanh Hóa. Vắng mặt. (Có đơn xin xét xử vắng mặt).
-Bị đơn: Anh Quách Văn T; Sinh năm: 1994
Địa chỉ: Thôn B, xã T, huyện T, tỉnh Thanh Hóa. Có mặt
NỘI DUNG VỤ ÁN
Trong đơn khởi kiện đề ngày 01/6/2020 và bản tự khai ngày 14/7/2020 cũng trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn chị Quách Thị L trình bày:
Về hôn nhân: Chị và anh Quách Văn T kết hôn tự nguyện, có đăng ký kết hôn ngày 25/11/2014 tại Ủy ban nhân dân (Sau đây viết tắt là UBND) xã T, huyện T, tỉnh Thanh Hóa. Sau khi kết hôn, vợ chồng hoà thuận đến đầu năm 2017 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do vợ chồng tính tình không hòa hợp, không cùng chung quan điểm sống nên thường xuyên sảy ra cãi cọ. Thêm vào đó, anh T không chịu khó làm ăn, hay tụ tập bạn bè để uống rượu. Năm 2017, do uống rượu mà anh T gây tai nạn làm chết người và bị Tòa án nhân dân huyện Thạch Thành xử phạt 39 tháng tù, hiện nay anh T đã được tha tù trước thời hạn về nhà nhưng tình cảm vợ chồng vẫn không hàn gắn được. Nay chị xét thấy giữa hai vợ chồng tình cảm đã hết, hạnh phúc hôn nhân không đạt được, không thể kéo dài được nữa nên chị đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh T.
Về con chung: Vợ chồng có một con chung là Quách Thị M, sinh ngày 23/02/2015. Ly hôn, chị L yêu cầu được trực tiếp nuôi con và không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị.
Về tài sản: Chị L không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Tại bản tự khai ngày 15/7/2020 và tại phiên tòa, bị đơn anh Quách Văn T trình bày:
Về hôn nhân: Anh và chị Quách Thị L kết hôn tự nguyện, có đăng ký kết hôn ngày 25/11/2014 tại UBND xã T, huyện T, tỉnh Thanh Hóa. Sau khi kết hôn, vợ chồng cuộc sống vợ chồng hoà thuận bình thường nhưng đến năm 2017, anh vi phạm quy định khi tham gia giao thông đường bộ gây tai nạn chết người và bị Tòa án nhân dân huyện Thạch Thành xử phạt 39 tháng tù. Trong thời gian đi chấp hành án, chị L có đến thăm anh một lần vào tháng 5/2020. Nay anh đã được tha tù trước thời hạn và trở về nhà, anh mong muốn vợ chồng được đoàn tụ nên anh không đồng ý ly hôn với chị L và đề nghị Tòa án giải quyết theo pháp luật.
Về con chung: Vợ chồng có một con chung là cháu Quách Thị M, sinh ngày 23/02/2015. Nếu chị L nhất quyết yêu cầu ly hôn, anh yêu cầu được trực tiếp nuôi con và không yêu cầu chị L cấp dưỡng nuôi con chung cùng anh.
Về tài sản: Anh T không yêu cầu Tòa án giải quyết. Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát:
Về tố tụng: Tòa án đã xác định đúng quan hệ pháp luật và tư cách tố tụng của các đương sự trong vụ án. Từ giai đoạn thụ lý vụ án cho đến khi mở phiên tòa xét xử sơ thẩm, Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án cũng như các thành viên của Hội đồng xét xử (Sau đây viết tắt là HĐXX) và Thư ký phiên tòa đã tuân thủ đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự (Sau đây viết tắt là BLTTDS).
Nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình còn bị đơn chưa thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ theo quy định của BLTTDS.
Về nội dung: Đại diện Viện kiểm sát đề nghị áp dụng các Điều 56, 58, 81, 82, 83 Luật hôn nhân gia đình; Về hôn nhân: Xử cho chị Quách Thị L được ly hôn anh Quách Văn T; Về con chung: Giao cháu Quách Thị M, sinh ngày 23/02/2015 cho chị L trực tiếp nuôi dưỡng, anh T không phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị L.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, HĐXX nhận định:
[1]. Về tố tụng: Đây là vụ án Hôn nhân và gia đình có con chưa thành niên và trong quá trình giải quyết vụ án, do các bên đương sự chưa thống nhất được các vấn đề tranh chấp trong vụ án nên Tòa án đã tiến hành xác minh để xác định nguyên nhân của việc phát sinh tranh chấp theo khoản 3 Điều 208 BLTTDS và đã thông báo kết quả thu thập tài liệu chứng cứ cho các bên đương sự cũng nhưng VKS được biết.
[2]. Quá trình giải quyết vụ án Tòa án đã thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải cho các bên đương sự, nhưng anh T không có mặt nên Tòa án đã thông báo kết quả kiểm tra việc giao nộp tiếp cận công khai chứng cứ cho anh T theo khoản 3 Điều 210 BLTTDS.
[3]. Anh T đã được thông báo hợp lệ đến phiên hoà giải hai lần nhưng đều không đến để tham gia hoà giải nên Toà án không tiến hành hoà giải được. Đây là trường hợp không tiến hành hoà giải được theo quy định tại khoản 1 Điều 207 BLTTDS.
[4]. Tại phiên tòa hôm nay, chị L vắng mặt nhưng đã có đơn xin xét xử vắng mặt. Căn cứ quy định tại khoản 1 Điều 227, khoản 1 Điều 228 BLTTDS, Tòa án xét xử vắng mặt chị L.
[5]. Về hôn nhân: Chị Quách Thị L và anh Quách Văn T kết hôn tự nguyện, có đăng ký kết hôn ngày 25/11/2014 tại UBND xã T, huyện T, tỉnh Thanh Hóa và không vi phạm các điều cấm của Luật hôn nhân và gia đình, là hôn nhân hợp pháp và thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo khoản 1 Điều 28 BLTTDS. Trong cuộc sống hôn nhân, vợ chồng sống hòa thuận đến năm 2017 thì sảy ra mâu thuẫn. Nguyên nhân là do vợ chồng tính tình vợ chồng không hòa hợp, không cùng chung quan điểm sống nên đôi lúc có sảy ra cãi cọ và đã dẫn đến xô xát. Thêm vào đó, ngày 16/11/2017, do uống rượu nên anh T đã gây tai nạn chết người và bị Tòa án nhân dân huyện Thạch Thành xử phạt 39 tháng tù về tội “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ” theo quy định tại Điều 202 Bộ luật Hình sự năm 1999. Việc này, đã được UBND xã T xác nhận và cũng phù hợp với nội dung mà Tòa án tiến hành xác minh tại địa phương. Tòa án cũng đã triệu tập anh T nhiều lần để tổ chức hòa giải đoàn tụ nhưng anh T đều không có mặt. Nay chị L nhất quyết yêu cầu Tòa án giải quyết cho ly hôn với anh T chứng tỏ mâu thuẫn vợ chồng đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy, cần căn cứ điều 56 Luật hôn nhân và gia đình xử cho chị Quách Thị L được ly hôn anh Quách Văn T.
[6]. Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung là cháu Quách Thị M, sinh ngày 23/02/2015. Xét thấy, cháu M là con gái nên giao cho mẹ trực tiếp nuôi dưỡng sẽ phù hợp hơn về mặt tình cảm và giới tính. Mặt khác, từ khi anh T đi chấp hành án thì cháu đều do chị L chăm sóc. Do đó, nghĩ nên chấp nhận yêu cầu của chị L, giao cháu M cho chị L trực tiếp nuôi dưỡng, anh T không phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị L.
[7]. Về tài sản: Chị L và anh T không yêu cầu Tòa án giải quyết nên miễn xét.
[8]. Về án phí: Chị L phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào các Điều 56, 58, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình; Điều 147 BLTTDS; Điều 6; Khoản 1 Điều 24; Điểm a, khoản 5, Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội.
1. Về hôn nhân: Xử cho chị Quách Thị L được ly hôn anh Quách Văn T.
2. Về con chung: Giao cháu Quách Thị M, sinh ngày 23/02/2015 cho chị L trực tiếp nuôi dưỡng, anh T không phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị L. Anh T có quyền qua lại, thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung không ai được cản trở.
3. Về án phí: Chị Quách Thị L phải chịu 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng) án phí dân sự sơ thẩm về việc ly hôn, nhưng được trừ vào số tiền chị L đã nộp tạm ứng tại Chi cục Thi hành án dân sự Thạch Thành, theo biên lai số: AA/2018/0002816, ngày 13/7/2020. Chị L đã nộp đủ tiền án phí.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 luật thi hành án dân sự.
Án xử công khai sơ thẩm, có mặt anh Quách Văn T, vắng mặt chị Quách Thị L. Anh T có quyền kháng cáo bản án này trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, chị L có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết.
Bản án 51/2020/HNGĐ-ST ngày 30/09/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con
Số hiệu: | 51/2020/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Thạch Thành - Thanh Hoá |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 30/09/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về