Bản án 51/2020/HNGĐ-ST ngày 11/09/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN DƯƠNG MINH CHÂU, TỈNH TÂY NINH

BẢN ÁN 51/2020/HNGĐ-ST NGÀY 11/09/2020 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 11 tháng 9 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân Huyện Dương Minh Châu, tỉnh Tây Ninh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số 328/2020/TLST-HNGĐ ngày 23 tháng 6 năm 2020 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 69/2020/QĐST-HNGĐ ngày 24/8/2020, giữa các đương sự:

1/ Nguyên đơn: Chị Trần M – sinh năm 1978 (có mặt).

Nơi cư trú: Số nhà 21, tổ 21, ấp N, xã B, Huyện D, tỉnh Tây Ninh.

2/ Bị đơn: Anh Trần P - sinh năm 1970 (có mặt).

Nơi cư trú: Số nhà 21, tổ 21, ấp N, xã B, Huyện D, tỉnh Tây Ninh.

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Nguyên đơn chị Trần M trình bày: Chị và anh Trần P tự nguyện chung sống với nhau từ năm 2004, có đăng ký kết hôn với nhau tại Ủy ban nhân dân thị trấn V, huyện H, tỉnh Long An vào ngày 25/11/2004. Chị và anh P đã có với nhau 02 con chung tên Trần L – sinh ngày 28/10/2005 và Trần T – sinh ngày 14/4/2008, hiện đang sống với vợ chồng. Cuộc sống chung hạnh phúc đến khoảng năm 2010 thì phát sinh mâu thuẫn do anh P sống không chung thủy, có mối quan hệ bất chính với người phụ nữ khác về nhà chửi mắng vợ con bằng nhiều lời lẽ thô tục, xúc phạm danh dự chị và đánh chị. Do thương con nên chị chịu đựng và tha thứ cho anh P để mong anh P thay đổi, tuy nhiên đến tháng 05/2020 thì chị tiếp tục phát hiện anh P có mối quan hệ bất chính với người phụ nữ khác và bắt gặp tại nhà trọ và có đầy đủ chứng cứ. Chị vẫn cố gắng khuyên anh P nhưng anh P không nghe mà còn xúi người phụ nữ đó đến nhà chửi mắng chị, do quá bức xúc nên chị có nhờ chính quyền địa phương can thiệp. Nay chị cảm thấy không thể tiếp tục chung sống với anh P được nữa nên yêu cầu ly hôn. Về con chung thì chị yêu cầu được quyền trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục 02 con chung, chị không yêu cầu anh P cấp dưỡng nuôi con. Anh P được quyền thăm nom con chung sau khi ly hôn. Về tài sản chung, nợ chung: Chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Bị đơn anh Trần P trình bày: Anh thừa nhận những lời trình bày của chị M về thời gian chung sống, đăng ký kết hôn, con chung là đúng. Anh thừa nhận những lỗi lầm của anh như chị M trình bày, nay anh nhận thấy được sai lầm của mình, nên mong chị M tha thứ và cho anh một cơ hội để thay đổi. Nay chị M yêu cầu ly hôn thì anh không đồng ý, vì vẫn còn thương vợ thương con, Anh có nguyện vọng được đoàn tụ; Về con chung thì do anh yêu cầu được đoàn tụ nên không đặt ra giải quyết. Về tài sản chung, nợ chung: Anh không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Huyện Dương Minh Châu phát biểu quan điểm: Xét thấy từ khi thụ lý vụ án đến nay, Thẩm phán, Thư ký và Hội đồng xét xử đã tuân thủ đúng theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Về nội dung: Xét thấy đời sống vợ chồng của chị M và anh P đã xảy ra nhiều mâu thuẫn, nguyên nhân là từ anh P, đã có cơ sở xác định mâu thuẫn vợ chồng đã đến mức trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị M; con chung: 02 cháu Trần L – sinh ngày 28/10/2005 và Trần T – sinh ngày 14/4/2008, có nguyện vọng sống với chị M, nên giao chị M tiếp tục nuôi dưỡng, chăm sóc; Ghi nhận chị M không yêu cầu anh P cấp dưỡng nuôi con chung; về tài sản chung, nợ chung: Các đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về án phí: Các đương sự phải chịu theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi căn cứ vào tài liệu chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Chị Trần M yêu cầu ly hôn và giải quyết về con chung với anh Trần P. Căn cứ vào Điều 28, 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự thì đây là vụ án ly hôn, tranh chấp về nuôi con và thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân Huyện Dương Minh Châu, tỉnh Tây Ninh.

[2] Xét yêu cầu xin ly hôn của chị Trần M đối với anh Trần P. Chị M và anh P chung sống từ năm 2004 trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn, đây là hôn nhân hợp pháp. Từ năm 2010 vợ chồng xảy ra mâu thuẫn do anh P có quan hệ với người phụ nữ khác, về nhà chửi mắng vợ con bằng nhiều lời lẽ thô tục, xúc phạm danh dự chị M và còn đánh chị M. Do thương con chị M đã tha thứ cho anh P thay đổi, tuy nhiên anh P vẫn không thay đổi và tiếp tục có mối quan hệ bất chính với người phụ nữ khác và còn xúi người phụ nữ có mối quan hệ bất chính với anh đến nhà chửi mắng và xúc phạm chị M. Từ đó cho thấy cuộc sống vợ chồng chị M và anh P không hạnh phúc và mục đính hôn nhân không đạt được. Anh P muốn được đoàn tụ nhưng không biết sửa chữa những lỗi lầm của mình gây ra, nên không có cơ sở xem xét. Vì vậy với yêu cầu ly hôn của chị M là có căn cứ, phù hợp với quy định tại Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình, cần chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị M đối với anh P.

[3] Về con chung: Chị M và anh P có với nhau 02 cháu Trần L – sinh ngày 28/10/2005 và Trần T – sinh ngày 14/4/2008, có nguyện vọng sống với chị M, nên giao chị M tiếp tục nuôi dưỡng, chăm sóc; Ghi nhận chị M không yêu cầu anh P cấp dưỡng nuôi con chung; Anh P được quyền thăm nom con chung sau khi ly hôn mà không ai được cản trở.

[4] Về tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

[5] Về án phí dân sự sơ thẩm: Căn cứ vào Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 27 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội. Chị Trần M phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Huyên Dương Minh Châu, tỉnh Tây Ninh, kiểm sát viên tại phiên Tòa phát biểu quan điểm về vụ án là hoàn toàn có căn cứ.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 56, 81, 82 Luật Hôn nhân và gia đình; Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 27 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

1/ Chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị Trần M đối với anh Trần P.

Chị Trần M và anh Trần P được ly hôn.

- Về con chung: Giao 02 cháu Trần L – sinh ngày 28/10/2005 và Trần T – sinh ngày 14/4/2008 cho chị M được tiếp tục trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục; anh P không phải cấp dưỡng nuôi con chung. Anh P được quyền thăm nom con chung mà không ai được cản trở.

- Về tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

2/ Án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm: Chị Trần M phải chịu 300.000 đồng. Được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng mà chị M đã nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự Huyện Dương Minh Châu, tỉnh Tây Ninh theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0004716 ngày 15/6/2020.

Các đương sự được quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

155
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 51/2020/HNGĐ-ST ngày 11/09/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:51/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Dương Minh Châu - Tây Ninh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 11/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về