Bản án 51/2019/HNGĐ-ST ngày 31/10/2019 về ly hôn và tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MỸ TÚ, TỈNH SÓC TRẮNG

BẢN ÁN 51/2019/HNGĐ-ST NGÀY 31/10/2019 VỀ LY HÔN VÀ TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 31 tháng 10 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Mỹ Tú, tỉnh Sóc Trăng, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 170/2019/TLST-HNGĐ ngày 27 tháng 6 năm 2019, về ly hôn và tranh chấp về nuôi con, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 99/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 30 tháng 9 năm 2019, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Võ Thái H;

Địa chỉ cư trú: Ấp M, xã Đ, thị xã N, tỉnh Hậu Giang, (có đơn đề nghị xét xử vắng mặt)

2. Bị đơn: Anh Phạm Văn R;

Địa chỉ cư trú: Ấp P, xã H, huyện M, tỉnh Sóc Trăng, (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện đề ngày 12-10-2018 và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn chị Võ Thái H trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị và anh Phạm Văn R tổ chức lễ cưới với vào ngày 19-02-2014, có đến Ủy ban nhân dân xã Đ, thị xã N, tỉnh Hậu Giang đăng ký kết hôn và được Ủy ban nhân dân xã cấp Giấy chứng nhận kết hôn số 99 ngày 27-11-2015. Hôn nhân của vợ chồng chị là hôn nhân tự nguyện, không ai ép buộc. Sau khi đám cưới, vợ chồng chị chung sống với nhau ở ấp P, xã H, huyện M, tỉnh Sóc Trăng. Thời gian đầu, vợ chồng chung sống rất hạnh phúc, nhưng đến tháng 02-2017 thì bắt đầu phát sinh mâu thuẫn trầm trọng, nguyên nhân là do anh R thường hay đi nhậu, không lo làm ăn, không quan tâm, chăm sóc vợ con, làm cho cuộc sống vợ chồng không còn hạnh phúc nên vợ chồng chị không còn sống chung với nhau từ đó cho đến nay. Nay chị yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh R.

Về con chung: Vợ chồng chị chung sống với nhau có được 01 đứa con chung tên là Phạm Ngọc H1, sinh ngày 08-8-2016, đang sống chung với chị. Khi ly hôn, chị yêu cầu được nuôi con và không yêu cầu anh R cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nợ chung: Vợ chồng chị không có nên chị không yêu cầu giải quyết.

Đối với bị đơn anh Phạm Văn R:

Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã tống đạt hợp lệ thông báo thụ lý vụ án cho anh biết nhưng anh không có ý kiến gì đối với yêu cầu khởi kiện của chị H. Tòa án cũng đã triệu tập hợp lệ anh để tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải nhưng anh vắng mặt không có lý do và chị H có đơn yêu cầu Tòa án không tiến hành hòa giải nữa. Vì vậy, Tòa án đã lập biên bản về việc không tiến hành hòa giải được và mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ, sau đó đã thông báo cho anh biết kết quả phiên họp. Đồng thời, Tòa án cũng ra quyết định đưa vụ án ra xét xử. Tại phiên tòa sơ thẩm, anh R cũng đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không có lý do.

Ý kiến của Kiểm sát viên tại phiên tòa sơ thẩm:

Trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và nguyên đơn đều thực hiện đúng theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự, còn bị đơn luôn vắng mặt không có lý do khi Tòa án triệu tập tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, cũng như phiên tòa sơ thẩm, là không thực hiện đúng theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Về nội dung vụ án, đối với các yêu cầu khởi kiện của chị H, về việc xin ly hôn với anh R, yêu cầu được nuôi con chung là có căn cứ nên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận, còn về cấp dưỡng nuôi con, về tài sản chung và nợ chung, chị H không yêu cầu giải quyết nên đề nghị không đặt ra xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về thủ tục tố tụng: Nguyên đơn chị Võ Thái H, bị đơn anh Phạm Văn R đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai để tham gia phiên tòa sơ thẩm nhưng vắng mặt. Hội đồng xét xử thấy, đối với chị H có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt, còn anh R vắng mặt không vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan. Do đó, theo quy định tại điểm a, b khoản 2 Điều 227 và khoản 1, khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt đối với chị H và anh R.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị H, anh R kết hôn với nhau là trên cơ sở tự nguyện, không ai ép buộc, được Ủy ban nhân dân xã Đ, thị xã N, tỉnh Hậu Giang cấp Giấy chứng nhận kết hôn số 99 ngày 27-11-2015, nên quan hệ hôn nhân giữa hai người là hợp pháp. Khoản 1 Điều 51 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 quy định: “Vợ, chồng hoặc cả hai người có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn”. Như vậy, chị H có quyên yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn với anh R.

[3] Xét yêu cầu xin ly hôn của chị H, Hội đồng xét xử nhận thấy, sau khi tổ chức đám cưới vào năm 2014, chị H và anh R cũng đã chung sống hạnh phúc với nhau được một thời gian, đến tháng 02-2017 mới phát sinh mâu thuẫn trầm trọng, nguyên nhân chủ yếu là do anh R không lo làm ăn, không quan tâm, chăm sóc vợ con và gia đình, làm cho cuộc sống hôn nhân không còn hạnh phúc nữa nên hai người không còn sống chung với nhau kể từ năm 2017 cho đến nay. Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã mời hai bên hòa giải, động viên hàn gắn tình cảm, đoàn tụ với nhau, nhưng anh R không đến và chị H vẫn cương quyết xin ly hôn. Như vậy, cả hai người đã vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ của vợ chồng, đó là không thương yêu, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau, không sống chung với nhau; làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm họng, đời sống chung không thể kéo dài, nếu tiếp tục duy trì cuộc sống hôn nhân này thì mục đích của hôn nhân cũng không đạt được. Theo quy định tại khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 thì: “Khi vợ hoặc chồng yêu cầu ly hôn mà hòa giải tại Tòa án không thành thì Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về việc vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được”. Do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị H, cho chị ly hôn với anh R.

[4] Về con chung: Chị H và anh R có 01 đứa con chung tên là Phạm Ngọc H1, sinh ngày 08-8-2016. Chị H yêu cầu được nuôi con. Xét yêu cầu này, Hội đồng xét xử thấy, khoản 2 Điều 81 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 có quy định: “Vợ, chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, quyền, nghĩa vụ của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; trường hợp không thỏa thuận được thì Tòa án giải quyết giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi mọi mặt của con; nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con”. Như vậy, từ khi Tòa án thụ lý vụ án cho đến nay, chị H, anh R không có gặp nhau và cũng không có thỏa thuận với nhau về việc nuôi con chung sau khi ly hôn nên do Tòa án giải quyết. Hiện nay, cháu H1 chưa đủ 07 tuổi, kể từ khi hai người không còn sống chung với nhau thì cháu H1 ở với chị H, do chị trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, còn anh R không có tới lui thăm nom, chăm sóc con chung. Do đó, để đảm bảo quyền lợi mọi mặt của cháu H1, tránh xáo trộn cuộc sống hiện tại của cháu, Hội đồng xét xử quyết định giao cháu H1 cho chị H tiếp tục nuôi dưỡng.

[5] Về cấp dưỡng nuôi con: Khoản 2 Điều 82 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 quy định: “Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con”. Đáng lẽ ra, anh R là người không trực tiếp nuôi con thì phải cấp dưỡng nuôi con, nhưng chị H không yêu cầu. Do đó, Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[6] Ngoài ra, khoản 3 Điều 82 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 còn quy định: “Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở”. Như vậy, anh R là người không trực tiếp nuôi con nên có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

[7] Về tài sản chung và nợ chung: Chị H không có yêu cầu và anh R cũng không có ý kiến gì nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[8] Như vậy, tại phiên tòa sơ thẩm, Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận các yêu cầu khởi kiện của chị H là có căn cứ.

[9] Về án phí sơ thẩm: Chị H là người xin ly hôn nên theo quy định tại điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, chị phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân và được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, điểm a, b khoản 2 Điều 227, khoản 1 và khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56, khoản 2 Điều 81, khoản 2 và khoản 3 Điều 82 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Cho ly hôn giữa chị Võ Thái H và anh Phạm Văn R.

2. Về con chung:

- Giao cháu Phạm Ngọc H1, sinh ngày 08 tháng 8 năm 2016 cho chị Võ Thái H nuôi dưỡng.

- Anh Phạm Văn R không phải cấp dưỡng nuôi con.

- Anh Phạm Văn R có quyền, nghĩa vụ thăm nom con, không ai được cản trở.

3. Về tài sản chung và nợ chung: Chị Võ Thái H và anh Phạm Văn R không yêu cầu nên không đặt ra xem xét.

4. Về án phí sơ thẩm: Chị Võ Thái H phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí hôn nhân; được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng), theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0006259 ngày 21 tháng 6 năm 2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Mỹ Tú, tỉnh Sóc Trăng và như vậy chị đã nộp đủ án phí sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

6. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014 thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

160
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 51/2019/HNGĐ-ST ngày 31/10/2019 về ly hôn và tranh chấp nuôi con

Số hiệu:51/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mỹ Tú - Sóc Trăng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 31/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về