Bản án 51/2019/HNGĐ-ST ngày 29/11/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LỆ THỦY, TỈNH QUẢNG BÌNH

BẢN ÁN 51/2019/HNGĐ-ST NGÀY 29/11/2019 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 29 tháng 11 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình, xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 162/2019/TLST-HNGĐ ngày 18/7/2019 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 47/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 30/10/2019; Quyết định hoãn phiên tòa số 40/QĐST-HNGĐ ngày 14/11/2019 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Đỗ Thị L, địa chỉ: Thôn T, xã V, huyện L, tỉnh Quảng Bình, có mặt.

2. Bị đơn: Anh Nguyễn Quang L, địa chỉ: Thôn T, xã V, huyện L, tỉnh Quảng Bình, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ly hôn ngày 18/7/2019, bản tự khai ngày 06/8/2019 và biên bản hòa giải ngày 10/10/2019 cũng như tại phiên toà, nguyên đơn chị Đỗ Thị L đều trình bày: Chị và anh L trước đây yêu nhau và kết hôn tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại UBND xã V, huyện L, tỉnh Quảng Bình vào ngày 31/12/2011. Sau kết hôn, vợ chồng làm nhà ở riêng tại xã V, huyện L, tỉnh Quảng Bình. Vợ chồng sống hạnh phúc được khoảng 5 năm thì xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân do anh L không chịu khó làm ăn, xây dựng gia đình mà thường xuyên uống rượu say về nhà gây gổ vợ con làm náo loạn cuộc sống trong gia đình, không có lúc nào yên ổn. Chị đã nhiều lần vận động, khuyên can, góp ý để anh L chú tâm làm ăn, xây dựng gia đình và chăm lo con cái nhưng anh L không thay đổi mà tình hình ngày càng tồi tệ hơn. Hiện nay chị xác định tình cảm giữa chị và anh L thực sự đã hêt, để đảm bảo cuộc sống bình yên, con cái ổn định học hành, chị yêu cầu được ly hôn anh L.

Bị đơn anh Nguyễn Quang L vắng mặt tại phiên tòa nhưng anh trình bày qua bản tự khai và biên bản hòa giải ngày 10/10/2019, về quá trình tìm hiểu và kết hôn đúng như chị L trình bày; Sau kết hôn, vợ chồng sống hạnh phúc được 7 năm thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do anh đi làm theo bạn, theo đoàn có uống rượu nên vợ không bằng lòng, anh xin Tòa và chị L cho anh cơ hội khắc phục, sửa chữa để vợ chồng đoàn tụ cùng nhau nuôi dạy con cái.

Con chung: Chị L, anh L trình bày: Vợ chồng có 02 con chung Nguyễn Bảo T, sinh ngày 30/9/2012 và Nguyễn Quang D, sinh ngày 08/10/2014. Nguyện vọng của chị L được trực tiếp nuôi cả hai con sau khi ly hôn, yêu cầu anh L cấp dưỡng nuôi hai con mỗi tháng 1.000.000 đồng. Anh L không nhất trí ly hôn, nhưng nếu ly hôn, anh cũng có nguyện vọng được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cả hai con. Nếu được nuôi hai con anh cũng yêu cầu chị L cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 1.000.000 đồng.

Về tài sản chung: Chị L, anh L không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà, kết quả hỏi và tranh luận tại phiên tòa;

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1]. Về tố tụng: Bị đơn anh Nguyễn Quang L đã được Tòa án tống đạt quyết định đưa vụ án ra xét xử, giấy triệu tập và quyết định hoãn phiên tòa hợp lệ nhưng vẫn vắng mặt tại phiên tòa lần thứ hai không có lý do nên Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vụ án vắng mặt bị đơn theo điểm b khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2]. Về nội dung:

[2.1]. Quan hệ hôn nhân: Chị Đỗ Thị L và anh Nguyễn Quang L đăng ký kết hôn với nhau ngày 31/12/2011 tại UBND xã V, huyện L, tỉnh Quảng Bình là hôn nhân hợp pháp. Vợ chồng sống chung hạnh phúc từ khi kết hôn đến năm 2016 thì xảy ra mâu thuẫn. Nguyên nhân do anh L thiếu quan tâm xây dựng hạnh phúc gia đình, thể hiện qua việc không chú tâm làm ăn, không chăm sóc vợ con mà thường xuyên theo bạn bè ăn nhậu theo sở thích, bỏ bê công việc dẫn đến vợ chồng thường xuyên lục đục, gây gổ nhau. Nhiều lần chị L có ý định ly hôn nhưng vì thương hai còn quá nhỏ dại nên chị đã cố chịu đựng, đồng thời góp ý, khuyên can mong anh L thay đổi để cuộc sống gia đình được yên ấm nhưng thời gian qua, anh L không thay đổi, sửa chữa mà còn làm cho mâu thuẫn vợ chồng ngày càng căng thẳng hơn. Tòa án đã tổ chức hòa giải nhiều lần nhưng anh L chỉ có mặt được một lần và trình bày không muốn ly hôn vì con cái. Tòa án đã tạo điều kiện về mặt thời gian để anh L cơ cơ hội cải thiện quan hệ hôn nhân nhưng anh L không có biện pháp gì để níu kéo, hàn gắn tình cảm vợ chồng. Phiên hòa giải tiếp theo, anh L vẫn vắng mặt, kể cả phiên tòa lần thứ hai đã được Tòa án tống đạt giấy triệu tập hợp lệ, qua đó, chứng tỏ anh L không có thiện chí đoàn tụ, không tha thiết hàn gắn tình cảm với chị L nữa. Chị L thì xác định tình cảm vợ chồng thực sự đã hết và yêu cầu được ly hôn anh L.

Xét thấy, tình trạng vợ chồng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, cần xử cho hai bên ly hôn nhau là phù hợp với khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình.

[2.2]. Về con chung: Chị L, anh L có hai con chung: Nếu ly hôn cả hai bên đều có nguyện vọng được trực tiếp nuôi cả hai con, yêu cầu bên kia cấp dưỡng nuôi hai con mỗi tháng 1.000.000 đồng. Hội đồng xét xử nhận thấy, nguyện vọng của hai bên đều chính đáng, nhưng hiện tại con đầu cháu Nguyễn Bảo T, sinh ngày 30/9/2012, cháu thứ hai Nguyễn Quang D, sinh ngày 08/10/2014, độ tuổi của các cháu rất cần sự chăm sóc của người mẹ nhiều hơn, cháu đầu có bản khai xin được ở với mẹ nên cần chấp nhận yêu cầu của chị L giao cho chị được trực tiếp chăm sóc và nuôi dưỡng hai con, buộc anh L cấp dưỡng nuôi hai con hàng tháng là phù hợp với các Điều 58, 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình.

[2.3].Tài sản chung: Chị L, anh L không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[2.4].Về án phí: Chị L, anh L phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo luật định.

Vì các lẽ trên;

Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

QUYẾT ĐỊNH

1. Về quan hệ hôn nhân: Áp dụng khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình: Xử cho chị Đỗ Thị L và anh Nguyễn Quang L được ly hôn nhau.

2. Về con chung: Áp dụng các Điều 58, 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình: Xử giao cho chị Đỗ Thị L được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng hai con Nguyễn Bảo T, sinh ngày 30/9/2012 và Nguyễn Quang D, sinh ngày 08/10/2014, buộc anh L cấp dưỡng nuôi hai con mỗi tháng 1.000.000 đồng (mỗi con 500.000 đồng/tháng), kể từ tháng 12/2019 cho đến khi con tròn 18 tuổi. Anh L có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung, không ai được cản trở.

3. Án phí: Áp dụng khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5, điểm a khoản 6 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Chị L phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng chị đã nộp theo biên lai số: 0005807 ngày 18/7/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Lệ Thuỷ. Chị L đã nộp đủ án phí. Anh L phải chịu án phí dân sự sơ thẩm của người có nghĩa vụ cấp dưỡng 300.000 đồng.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự, thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án, hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Chị L được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm 29/11/2019, anh L được kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niên yết để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

218
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 51/2019/HNGĐ-ST ngày 29/11/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:51/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lệ Thủy - Quảng Bình
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 29/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về