TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MƯỜNG TÈ, TỈNH LAI CHÂU
BẢN ÁN 51/2018/HSST NGÀY 30/10/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Trong ngày 30 tháng 10 năm 2018 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện MườngTè xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 56/2018/TLST-HS ngày 04 tháng 9 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 55/2018/QĐXXST-HS ngày 17 tháng 10 năm 2018 đối với bị cáo:
Lò Thị H- sinh năm 1992 tại huyện Mường Tè, tỉnh Lai Châu.
Nơi ĐKHKTT: Bản N, xã B, huyện M, tỉnh Lai Châu; nghề nghiệp: Trồng Trọt; Trình độ văn hoá: 7/12; Dân tộc: Mảng; Giới tính: Nữ; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt nam; Con ông: Lò A Đ- sinh năm 1951 và bà: Lò Thị L (đã chết); Bị cáo sống chung với Lò A D- sinh năm 1987 và có 05 con, con lớn nhất sinh năm 2007, con nhỏ nhất sinh năm 2017; Tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: Nghiện ma túy; Bị cáo bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 17/5/2018 đến nay. Có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Chiều ngày 12/5/2018 Lò Thị H- sinh năm 1992 đang ở nhà một mình tại bản N, xã B, huyện M, thì có một người đàn ông dân tộc Mông lạ mặt đến trao đổi mua bán thuốc phiện với H. Do bản thân là người nghiện nên H đồng ý mua thuốc phiện của người đàn ông này để sử dụng, qua trao đổi H mua được 07 gói thuốc phiện với giá 300.000đ (ba trăm nghìn đồng). Ngoài ra H còn đổi 01 con gà lấy 01 gói thuốc phiện và xin được 38 viên thuốc tân dược ký hiệu APC của người đàn ông này. Mua bán xong, H đã cất giấu toàn bộ 08 gói thuốc phiện và 38 viên APC vào trong một chiếc bao xác rắn rồi để tại khe vách nhà trong gian buồng ngủ của H. Đến chiều ngày 13/5/2018 H có gạt ra một ít thuốc phiện từ gói thuốc phiện do H đổi gà được để sử dụng tại nhà rồi cất giấu vào chỗ cũ. Đến khoảng 04 giờ 50 phút ngày 14/5/2018 sau khi nhận được tin báo của quần chúng nhân dân, tổ công tác Công an xã Bum Nưa đến nhà H vận động nên H đã thừa nhận hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Ngay lúc đó, tổ công tác phát hiện dưới 01 tấm ván gỗ ép tại khe vách nhà H có 01 chiếc bao xác rắn. Qua kiểm tra, tổ công tác phát hiện bên trong chiếc bao này có 08 gói thuốc phiện; 38 viên thuốc tân dược APC; 01 bộ bàn đèn tự tạo và 125.000đ. Đến 05 giờ 10 phút cùng ngày tổ công tác Công an xã Bum Nưa lập biên bản ghi nhận sự việc và thu giữ toàn bộ vật chứng nêu trên.
Biên bản Kết luận giám định tư pháp ngày 14/5/2018 của người giám định tư pháp theo vụ việc- Công an huyện Mường Tè kết luận: 08 gói vật chứng thu giữ của Lò Thị H có tổng khối lượng 2,24 gam.
Tại kết luận giám định số 223/GĐ- KTHS ngày 24/5/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lai Châu kết luận: "08 (tám) mẫu chất nhựa dẻo, màu nâu đen, có mùi hắc thu giữ của Lò Thị H gửi đến giám định là chất ma túy, loại Thuốc phiện”.
Đối với số 2,24 gam thuốc phiện đã gửi hết đi giám định (không hoàn lại mẫu vật); 125.000đ do không liên quan đến vụ án nên cơ quan CSĐT đã trả lại cho bị cáo. Vật chứng còn lại của vụ án: 38 viên thuốc tân dược APC; 01 bộ bàn đèn tự tạo dùng để hút thuốc phiện; 01 bao tải xác rắn có quai xách. Tất cả đang được bảo quản theo quy định tại kho vật chứng của Chi cục Thi hành án Dân sự huyện Mường Tè. Việc thu giữ, tạm giữ vật chứng đảm bảo đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.
Trong quá trình điều tra, truy tố bị cáo Lò Thị H đều thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào.
Tại bản cáo trạng số 35/CT- VKS- MT ngày 04/9/2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Mường Tè đã truy tố bị cáo Lò Thị H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Tại phiên Tòa Kiểm sát viên vẫn giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bị cáo Lò Thị H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Lò Thị H từ 01 năm 04 tháng đến 01 năm 08 tháng tù, không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo. Ngoài ra Viện kiểm sát còn đề nghị về xử lý vật chứng tịch thu 38 viên thuốc tân dược APC; 01 bộ bàn đèn tự tạo dùng để hút thuốc phiện và 01 chiếc túi xác rắn có quai xách để tiêu hủy. Bị cáo nhất trí với bản cáo trạng, bản luận tội của Viện kiểm sát, không bổ sung tranh luận gì chỉ xin giảm nhẹ hình phạt.
Căn cứ vào các chứng cứ tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an huyện Mường Tè, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Mường Tè, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều phù hợp.
[2] Tại phiên Tòa và trong quá trình điều tra bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Lời nhận tội phù hợp với lời khai nhận tội tại cơ quan điều tra, biên bản thu giữ, niêm phong vật chứng, biên bản khám xét, kết luận giám định về chất ma túy, các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa. Tòa án đã có đủ căn cứ kết luận: Ngày 14/5/2018 qua tin báo tố giác tội phạm của quần chúng nhân dân, Công an xã Bum Nưa đã phát hiện Lò Thị H đã tàng trữ trái phép 2,24 gam thuốc phiện tại nhà riêng thuộc bản N, xã B, huyện Mường Tè nhằm mục đích sử dụng. Hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm trực tiếp đến khách thể được pháp luật hình sự Việt Nam bảo vệ, đó là chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy. Bị cáo là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự và biết rõ hành vi phạm tội của mình bị pháp luật nghiêm cấm nhưng để thỏa mãn nhu cầu cá nhân mà bị cáo vẫn cố ý thực hiện. Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội vì chất ma túy không những trực tiếp hủy hoại sức khỏe con người, làm suy thoái giống nòi, gây ảnh hưởng xấu đến trật tự, an toàn xã hội và an ninh quốc gia mà còn là nguyên nhân chủ yếu làm gia tăng tội phạm khác.
[3] Về tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự thấy: Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, thể hiện qua việc tự giao nộp 08 (tám) gói thuốc phiện, bị cáo sinh sống ở vùng có điều kiện kinh tế- xã hội đặc biệt khó khăn nên cần cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.
Tuy nhiên xét tính chất và hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy, gây mất trật tự trị an tại địa phương và bản thân bị cáo nghiện ma túy vậy cần cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để bị cáo tự cải tạo bản thân thành công dân tốt và cũng để đảm bảo cho công tác đấu tranh phòng chống tội phạm.
Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào.
[4] Về hình phạt bổ sung: Theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo thì bị cáo không có nghề nghiệp, không có tài sản, là người nghiện ma túy nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
[5] Về nguồn gốc thuốc phiện thu giữ trong vụ án: Lò Thị H khai mua của người đàn ông dân tộc Mông lạ mặt, không rõ nhân thân, lai lịch. Quá trình điều tra không xác định được nên HĐXX không xem xét giải quyết.
[6] Xử lý vật chứng: Đối với 2,24 gam thuốc phiện đã gửi hết đi giám định không hoàn lại mẫu vật. Vật chứng còn lại gồm 38 viên thuốc tân dược APC không còn giá trị sử dụng; 01 bộ bàn đèn tự tạo bị cáo H dùng để hút thuốc phiện; 01 bao xác rắn màu trắng có quai xách dùng để cất giấu thuốc phiện. Cần tịch thu để tiêu hủy.
[7] Về án phí: Bị cáo thuộc hộ nghèo của UBND xã B, huyện M. Áp dụng điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Miễn toàn bộ án phí Hình sự sơ thẩm cho bị cáo Lò Thị H.
[8] Quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án theo quy định tại các Điều 331, 332, 333 Bộ luật tố tụng hình sự.
Vì các lẽ trên
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố bị cáo Lò Thị H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
- Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Lò Thị H 01 (một) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo đi chấp hành án.
2. Xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; khoản 1, khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:
Tịch thu 38 viên thuốc tân dược APC; 01 bộ bàn đèn tự tạo; 01 bao xác rắn màu trắng có quai xách để tiêu hủy.
(Vật chứng như biên bản giao nhận vật chứng giữa Công an huyện Mường Tè và Chi cục Thi hành án Dân sự huyện Mường Tè ngày 19/9/2018).
3. Án phí: Án phí: Áp dụng điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Miễn toàn bộ án phí Hình sự sơ thẩm cho bị cáo Lò Thị H.
4. Quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.
Bản án 51/2018/HSST ngày 30/10/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 51/2018/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Mường Tè - Lai Châu |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 30/10/2018 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về