TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ỨNG HÒA – THÀNH PHỐ HÀ NỘI
BẢN ÁN 51/2017/HSST NGÀY 17/08/2017 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH ĐKPTGTĐB
Ngày 17 tháng 8 năm 2017, tại trụ sở Ủy ban nhân dân xã Hồng Quang, huyện Ứng Hòa, TP Hà Nội xét xử sơ thẩm vụ án Hình sự thụ lý số: 52/2017/HSST ngày 20 tháng 7 năm 2017 đối với bị cáo :
LÊ MINH T, sinh năm 1986; Tên gọi khác : Không; STQ : Thôn H, xã P, huyện U, thành phố Hà Nội; Dân tộc : Kinh; Quốc tịch : Việt Nam; Nghề nghiệp : Lao động tự do;Trình độ văn hoá : 6/12; Con ông : Lê Minh T, sinh năm : 1964; Con bà: Đặng Thị X, sinh năm 1964; Vợ : Bùi Thị N, sinh năm 1976; Con có 02 con (Con lớn sinh năm 2007; nhỏ sinh năm 2011).Tiền án, tiền sự : Không. Danh chỉ bản số : 78 do Công an huyện Ứng Hòa lập ngày 22 tháng 3 năm 2017. Nhân thân : Tháng 9 năm 2012, bị Tòa án nhân dân huyện Thanh Oai, TP Hà Nội xử phạt 24 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” tháng 02/2014 chấp hành xong về địa phương. Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 22/3/2017 đến ngày 31/3/2017 được thay đổi biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cơ trú”, hiện tại ngoại có mặt tại phiên tòa.
Người bị hại: Ông Đoàn Văn Q, sinh năm 1947; trú tại: Thôn G, xã M, huyện U, TP Hà Nội (Tử vong ngày 21/3/2017).
Người đại diện theo ủy quyền của những người đại diện hợp pháp của người bị hại : Anh Đoàn Văn C, sinh năm 1979; Thôn G, xã M, huyện U, TP Hà Nội, vắng mặt.
Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan :
- Ông Đặng Văn B, sinh năm 1954, vắng mặt
- Bà Nguyễn Thị T, sinh năm 1960, vắng mặt
Đều trú tại : Số nhà 28, phố N, thị trấn V, huyện U, TP Hà Nội.
NHẬN THẤY
Bị cáo Lê Minh T bị Viện kiểm sát nhân dân huyện Ứng Hòa truy tố về hành vi được tóm tắt như sau : Khoảng 19 giờ 00 phút ngày 21/03/2017, Lê Minh T là người không có giấy phép lái xe, T đi tới gần nhà ông Đặng Văn B ở Phố N, thị trấn T (là bác ruột của T), thì T nhìn thấy chiếc xe ô tô HU NDAI PORTER màu trắng, BKS 29C- 724.00 của ông B đang để ở đối diện cửa nhà ông B. T quan sát thấy chìa khoá đang cắm ở ổ khoá điện của xe ô tô, do muốn điều khiển xe ô tô đi thử nên T đã tự ý mở cửa, bật khoá điện rồi điều khiển xe ô tô theo hướng Vân Đình đi cầu Gi (Tr n n c ). Khi đi đến ngã ba xã Minh Đức, Tuấn điều khiển xe ô tô r phải đi về hướng chợ Ngăm - xã Đại Cường, Ứng Hòa, Hà Nội. Khi đi đến đường liên xã Minh Đức đi Ngăm thuộc địa phận thôn Giới Đức, Minh Đức, Ứng Hoà, Hà Nội, T điều khiển xe ô tô đi lấn phần đường bên trái, do không làm chủ tốc độ nên đã đâm vào ông Đoàn Văn Q đang đi bộ ở vệ đường bên trái, phía trước cùng chiều làm ông Q ngã ra đường. T phanh xe, nhưng xe ô tô tiếp tục di chuyển về phía trước tạo nên vết phanh (1) liền có chiều hướng Minh Đức đi Ngăm có kích thước (11,45 x 0,15)m, vết phanh (2) liền có chiều hướng Minh Đức đi Ngăm có kích thước là (4 x 0,26)m, vết phanh (3) liền có chiều hướng Minh Đức đi Ngăm có kích thước (6,45 x 0,15)m, vết phanh (4) liền có chiều hướng Minh Đức đi Ngăm có kích thước (2,15 x 0,26)m.
Hậu quả: Ông Q bị thương nặng được gia đình đưa đi cấp cứu tại Bệnh viện Bạch Mai, đến 22 giờ 30 phút cùng ngày thì bị tử vong.
Khám nghiệm hiện trường vụ tai nạn giao thông : Đoạn đường xảy ra tai nạn giao thông là đường hai chiều, có vạch phân cách đứt quãng, không có chướng ngại vật, đoạn đường thẳng, mặt đường trải nhựa apphan bằng phẳng, khô ráo, không có ổ gà, hai bên đường có dân cư sinh sống.
+ Lòng đường rộng 5,70m.
+ Lề đường bên phải theo hướng Minh Đức đi Ngăm là 0,50m.
+ Lề đường bên trái theo hướng Minh Đức đi Ngăm là 0,50m.
Điểm lấy mốc góc nhà bên trái của nhà ông Nguyễn Văn G - Sinh năm1965 ở thôn G, xã M, huyện U, Hà Nội. Lấy mép đường bên phải theo hướng Minh Đức đi Ngăm tại nơi xảy ra tai nạn làm chuẩn.
Khám nghiệm hiện trường theo hướng Minh Đức đi Ngăm
- Vết phanh (1) liền có chiều hướng Minh Đức đi Ngăm có kích thước (11,45 x 0,15)m.
+ Đo đầu vết phanh (1) vào mép đường bên phải 4,10m.
+ Đo cuối vết phanh (1) là điểm tiếp xúc của má lốp bên phải bánh trước của xe ô tô BKS 29C – 724.00 tiếp xúc xuống mặt đường vào mép đường bên phải là 3,25m.
- Vết phanh (2) liền có chiều hướng Minh Đức đi Ngăm có kích thước là (4 x 0,26)m.
+ Đo đầu vết phanh (2) vào mép đường bên phải là 3,70m.
+ Đo cuối vết phanh (2) là điểm tiếp xúc của má lốp bên phải bánh sau xe ô tô BKS 29C – 724.00 tiếp xúc xuống mặt đường vào mép đường bên phải là 3,75m.
- Đo vết phanh (1) tới đầu vết phanh (2) là 5m.
- Vết phanh (3) liền có chiều hướng Minh Đức đi Ngăm có kích thước (6,45 x 0,15)m.
+ Đo đầu vết phanh (3) vào mép đường bên phải là 5,05m.
+ Đo cuối vết phanh (3) là điểm tiếp xúc của má lốp bánh trước bên trái của xe ô tô BKS 29C – 724.00 xuống mặt đường đo vào mép đường bên phải là 4,40m.
- Đo đầu vết phanh (2) tới đầu vết phanh (3) là 0,55m
- Vết phanh (4) liền có chiều hướng Minh Đức đi Ngăm có kích thước (2,15 x 0,26)m.
+ Đo đầu vết phanh (4) vào mép đường bên phải là 5,15m.
+ Đo cuối vết phanh (4) là điểm tiếp xúc của má lốp bánh sau bên trái của xe ô tô BKS 29C – 724.00 xuống mặt đường đo vào mép đường bên phải là5,20m.
- Đo đầu vết cày (3) tới vết cày (4) là 1,15m.
- Vị trí mảnh nhựa cùng kính v (5) gồm nhiều mảnh có kích thước (0,80 x 80)m.
+ Tâm mảnh nhựa cùng kính v (5) đo vào mép đường bên phải là 3,80m.
+ Đo đầu vết phanh (4) tới mảnh nhựa + kính v (5) là 6,20m.
- (6) Vị trí xe ô tô BKS 29C – 724.00 đỗ đầu xe hướng đi Ngăm, đuôi xe hướng đi Minh Đức.
+ Đo hình chiếu tâm mặt ngoài má lốp bên phải, bánh trước của xe ô tô tới mép đường bên phải là 3,25m.
+ Đo hình chiếu tâm mặt ngoài má lốp bên phải bánh sau xe ô tô tới mép đường bên phải là 3,75m.
- Tâm mảnh nhựa v (5) đo tới bánh trước bên trái xe ô tô BKS 29C – 724.00 là 0,90m.
- Đo đầu vết phanh (1) tới góc nhà bên trái của ông Nguyễn Văn Giáo là 1,40m.
Kết quả khám nghiệm xe ô tô BKS 29C – 724.00 :
- Xe ô tô tải, mầu trắng nhãn hiệu HUYNDAI số loại PORTER II, chiều dài 4,96m, chiều rộng đầu xe 1,66m, cao nhất thành thùng xe xuống mặt đất 2,2m.
+ Bánh xe ô tô trước nhãn hiệu RADIAL SC301 đường kính 62cm, chiều rộng mặt lăn 16cm.
+ Bánh xe sau: Bánh kép nhãn hiệu CARGOMATE đường kính 59cm, chiều rộng mặt lăn 12cm, khoảng cánh giữa hai khe lốp 7,5cm.
- Đèn chiếu xương mù bên trái phía trước bị vỡ bung rời khỏi vị trí cố định.
- Đầu ca bin bên trái có vết bẹp lõm, nứt nhựa vết bẹp lõm có diện (16 x10)cm x sâu 1,5cm, tâm vết cách đất 92cm.
- Kính chắn gió phía trước bên trái: Bị rạn vỡ trên diện (89 x 63) cm ; Trên vết này có vết bẹp lõm vỡ thủng có diện (24 x 30)cm; vết thủng có diện (13 x12)cm ; tâm vết thủng cách đất 1,52m ; tại góc bên trái của vết vỡ thủng có bám dính một số sợi tóc.
Kết quả khám nghiệm bên ngoài tử thi Đoàn Văn Q (gia đình bị hại cương quyết từ chối pháp y, giải phẫu töửthi để xác định nguyên nhân tử vong của ông Q) :
- Vùng trán bên phải có tổn thương trầy sước da rớm máu trên (5 x2) cm.
- Cung lông mày bên phải: sưng nề bầm tím trên diện (4 x 3) cm, bề mặt vết có rách da (2,5 x 0,3) cm, vùng gò má phải sưng nề trên bề mặt có trầy sước da trên diện (7 x 5)cm.
- Vùng trẩm bên trái có vết trầy sước da bầm tụ máu trên diện (3 x3) cm, sờ nắn tại chỗ có dấu hiệu lún xương hộp sọ.
- Mu bàn tay trái: Bầm tụ máu trên bề mặt có vết trầy sước da trên diện (3x3) cm, tay trái không có tổn thương xương.
- Mặt trước 1/3 dưới cánh tay trái phải có tổn thương bầm tụ máu trên diện (4 x 5)cm.
Ngày 07/4/2017 Cơ quan CSĐT Công an huyện Ứng Hòa đã ra Quyết định trưng cầu định số 22 giá đối với các phần hư hỏng của xe ô tô BKS 29C – 724.00. Kết quả: Tại bản kết luận định giá số 19 ngày 10/4/2017 của Hội đồng định giá tài sản trong TTHS huyện Ứng hòa kết luận: Các phần hư hỏng của xe ô tô trị giá 2.500.000đ (hai triệu năm trăm nghìn đồng).
Tại Bản cáo trạng số : 49/CT - VKS ngày 20/7/2017 Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân huyện Ứng Hoà truy tố bị cáo Lê Minh Tuấn về tội: “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ” theo quy đinh tại điểm a khoản 2 Điều 202 của Bộ luật Hình sự 1999.
Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo theo tội danh và điều khoản luận áp dụng như đã viện dẫn trong Cáo trạng; Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng : Điểm a khoản 2 Điều 202; điểm b, p khoản 1, Điều 46; Điều 47; Điều 33 của Bộ luật Hình sự. Tuyên bố bị cáo Lê Minh T phạm tội : Vi phạm quy định về điểu khiển phương tiện giao thông đường bộ, xử phạt bị cáo Tuấn từ 24 tháng đến 30 tháng tù; Về trách nhiệm dân sự : Các bên đã thỏa thuận giải quyết xong; về án phí : Áp dụng Điều 99 của Bộ luật tố tụng Hình sự, Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của ủy ban thường vụ quốc hội ngày 30 tháng 12 năm 2016, buộc bị cáo Lê Minh T phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng ) án phí Hình sự sơ thẩm.
Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà; kết quả tranh luận tại phiên toà; trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ và tài liệu, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.
XÉT THẤY
Tại phiên tòa bị cáo Lê Minh T nhận tội như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Ứng Hòa đã nêu; lời nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra và lời trình bầy của những người làm chứng, được chứng minh bởi sơ đồ hiện trường, biên bản khám nghiệm hiện trường, biên bản khám nghiệm phương tiện, khám nghiệm tử thi, phù hợp với các bản ảnh cùng các tài liệu khác được cơ quan Cảnh sát điều tra thu thập hợp pháp có trong hồ sơ vụ án.
Như vậy, Hội đồng xét xử có đủ căn cứ kết luận : Lê Minh T là người không có giấy phép lái xe. Vào khoảng 19 giờ 00 phút ngày 21/03/2017 Tuấn nhìn thấy chiếc xe ô tô HU NDAI PORTER màu trắng, BKS 29C- 724.00 của ông Đặng Văn B (Bác T) để ở đường, Tuấn đã tự ý lấy xe điều khiển đi đường chợ Ngăm – Đại Cường. Khi đi đến đường liên xã Minh Đức đi Ngăm thuộc địa phận thôn Giới Đức, Minh Đức, do không làm chủ tốc độ, T điều khiển xe ô tô đi lấn phần đường bên trái đâm vào ông Đoàn Văn Q. Hậu quả ông Q bị tử vong cùng ngày; tài sản bị hư hỏng có trị giá là 2.500.000đ (hai triệu năm trăm nghìn đồng).
Hành vi điều khiển xe ô tô không có giấy phép lái xe của Lê Minh T, khi tham gia giao thông đã không làm chủ tốc độ, đi không đúng phần đường (Lấn san toàn bộ p ần n b n trái) nên đã đâm vào ông Đoàn Văn Q dẫn đến ông Q tử vong, xe bị hư hỏng như đã nêu trên thì Lê Minh T đã vi phạm vào khoản 9 Điều 8; khoản 1 Điều 9 của Luật Giao thụng đường bộ. Đối chiếu quy định tại điểm a tiểu mục 4.1 phần I Nghị quyết số : 02/2003/NQ-HĐTP ngày 17/4/2003 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân Tối cao, hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật hình sự. Điểm a khoản 1 Điều 2 Thông tư liên tịch số : 09/2013/TTLT – BCA – BQP – BTP – VKSNDTC – TANDTC ngày 28 tháng 8 năm 2013 của Liên ngành Trung ương hướng dẫn áp dụng một số quy định tại chương XIX của Bộ luật hình sự về các tội xâm phạm trật tự an toàn giao thông thì bị cáo Lê Minh T đã phạm vào tội : Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ theo quy định tại điểm a (Không có giấy phép lái xe) khoản 2 Điều 202 của Bộ luật hình sự. Do đó, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân huyện Ứng Hoà truy tố bị cáo là cú căn cứ, đúng pháp luật.
Hành vi của bị cáo là nguy hiểm, xâm phạm trật tự an toàn giao thông đường bộ, gây hậu quả thiệt hại đến tính mạng con người, tài sản của người khác. Bị cáo lại là người có nhân thân xấu, mới chấp hành xong hình phạt tù trở về địa phương lại tiếp tục phạm tội nên cần phải áp dụng mức hình phạt tù cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định, tương xứng với tính chất và mức độ phạm tội, đủ để cải tạo, giáo dục bị cáo, đồng thời đảm bảo răn đe phòng ngừa chung. Tuy nhiên Hội đồng xét xử cũng xem xét đến các tình tiết: Trước cơ quan điều tra và tại phiên toà bị cáo thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải. Tại phiên Tòa bị cáo khai khi gia đình bị cáo thoả thuận, bồi thường trách nhiệm dân sự cho gia đình bị hại thì bị cáo đang bị tạm giữ nên không biết, không tác đồng gì; gia đình người bị hại đã có đơn đề nghị miễn truy cứu trách nhiệm hình sự cho bị cáo; sau khi phạm tội bị cáo đã ra đầu thú là những tình tiết giảm nh trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46 của Bộ luật hình sự.
Đối với ông Đặng Văn B là chủ sở hữu xe ô tô BKS 29C – 724.00. Ngày 21/3/2017, trước, trong khi xảy ra tai nạn giao thông, ông B không giao xe ô tô BKS 29C – 724.00 cho T điều khiển, T tự ý lấy chìa khóa xe vẫn cắm trong ổ khóa của xe ô tô, tự ý điều khiển xe gây ra vụ tai nạn trên. Do đó,Cơ quan điều tra không đặt ra xử lý đối với anh Bưởi là có căn cứ.
Về xử lý vật chứng và trách nhiệm dân sự :
- Xe ô tô BKS 29C – 724.00 bị hư hỏng có trị giá 2.500.000đ (Hai triệu năm trăm nghìn đồng), gia đình ông Đặng Văn B không yêu cầu bị cáo T phồi thường nên không giải quyết trong vụ án. Ông B đã xuất trình đầy đủ giấy tờ hợp lệ của xe ô tô, ngày 11/4/2017 Cơ quan CSĐT Công an huyện Ứng Hòa đã ra quyết định xử lý vật chứng số 35 trả lại chiếc xe ô tô cho ông B là chủ sở hữu hợp pháp là đúng quy định pháp luật.
- Trách nhiệm bồi thường cho gia đình nạn nhân : Bị cáo Lê Minh T đã bồi thường số tiền 100.000.000đ (Một trăm triệu đồng ) đại diện gia đình bị hại đã nhận và không yêu cầu bị cáo phải bồi thường thêm gì nên Hội đồng xét xử ghi nhận.
Về án phí, quyền kháng cáo : Bị cáo phải chịu án phí Hình sự sơ thẩm – Theo quy định tại các Điều 98, 99 của Bộ luật tố tụng Hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của ủy ban thường vụ Quốc hội ngày 30 tháng 12 năm 2016. Bị cáo; đại diện hợp pháp của người bị hại; những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo theo quy định tại Điều 231 và 234 của Bộ luật tố tụng Hình sự.
Bởi những lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố bị cáo Lê Minh T phạm tội : Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ.
Áp dụng điểm a khoản 2 Điều 202; điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46; Điều 33 của Bộ luật Hình sự. Xử phạt : Lê Minh T 48 (Bốn mươi tám) tháng tù, thời điểm chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án, được trừ thời hạn tạm giữ từ ngày 22/3/2017 đến ngày 31/3/2017.
2. Trách nhiệm dân sự : Áp dụng Điều 42 của Bộ luật Hình sự; Các Điều 584, 585, 586, 589; 591 của Bộ luật Dân sự năm 2015:
- Ghi nhận việc thoả thuận bồi thường xong trách nhiệm dân sự giữa bị cáo và gia đình với đại diện hợp pháp của người bị hại, tổng số tiền là 100.000.000đ (Một trăm triệu đồng ).
- Xác nhận ông Đặng Văn B đã nhận lại tài sản là chiếc xe ô tô nhãn hiệu HU NDAI PORTER màu trắng, BKS 29C- 724.00 và không yêu cầu bị cáo Tuấn phải bồi thường.
3. Về án phí : Căn cứ Điều 98; khoản 2 Điều 99 của Bộ của Bộ luật tố tụng Hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội : Buộc bị cáo Lê Minh T phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn) đồng án phí Hình sự sơ thẩm.
4. Về quyền kháng cáo : Căn cứ các Điều 231, 234 của Bộ luật tố tụng Hình sự : Bị cáo; người đại diện hợp pháp của người bị hại; những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan (Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo phần liên quan trực tiếp đến quyền lợi của mình ) được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án đối với bị cáo. Kể từ ngày bản án được giao hợp lệ hoặc niêm yết tại Uỷ ban nhân dân nơi thường trú đối với anh C, ông B, bà T./.
Bản án 51/2017/HSST ngày 17/08/2017 về tội vi phạm quy định ĐKPTGTĐB
Số hiệu: | 51/2017/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Ứng Hòa - Hà Nội |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 17/08/2017 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về