Bản án 51/2017/HNGĐ-ST ngày 15/08/2017 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LẠNG GIANG - TỈNH BẮC GIANG

BẢN ÁN 51/2017/HNGĐ-ST NGÀY 15/08/2017 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Ngày 15/8/2017 tại trụ sở tòa án nhân dân huyện Lạng Giang, xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 125/2017/TLST-HNGĐ ngày 19/4/2017 về tranh chấp hôn nhân và gia đình theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 79/2017/QĐXXST-HNGĐ, ngày 11/7/2017 giữa các đương sự:

+ Nguyên đơn: Anh Trần Văn T, sinh năm 1989 (có mặt);

Địa chỉ: Thôn A, xã Y, huyện L, tỉnh Bắc Giang.

+ Bị đơn: Chị Vũ Thị Th, sinh năm 1990 (vắng mặt);

Địa chỉ: Thôn Đ, xã M, huyện L, tỉnh Bắc Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện ly hôn, bản tự khai và quá trình làm việc tại Tòa án, anh Trần Văn T trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Anh kết hôn với chị Vũ Thị Th năm 2009 trên cơ sở tự do tìm hiểu, tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại UBND xã Y, huyện L, tỉnh Bắc Giang.

Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống hòa thuận đến đầu năm 2012 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn là do kinh tế khó khăn. Năm 2013 vợ chồng bàn bạc để chị Th đi lao động xuất khẩu tại Đài Loan có thời hạn 3 năm. Năm 2016, hết hợp đồng chị Th về nước nhưng không về nhà anh mà về nhà bố mẹ đẻ sinh sống, vợ chồng ly thân, không quan tâm gì đến nhau. Anh có lên nói chuyện và đón gọi nhiều lần nhưng chị Th không về đoàn tụ. Nay xác định tình cảm vợ chồng không còn, anh đề nghị Tòa án giải quyết cho ly hôn chị Th.

Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung là Trần Thị Kim N, sinh ngày 12 tháng 7 năm 2010, hiện cháu đang ở cùng anh. Nay ly hôn anh đề nghị được tiếp tục nuôi con chung, không yêu cầu chị Th góp tiền cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung, công nợ, ruộng canh tác: Không đề nghị Tòa án giải quyết.

Tại phiên tòa hôm nay anh vẫn giữ nguyên yêu cầu trên.

Sau khi thụ lý vụ án Tòa án nhân dân huyện Lạng Giang đã niêm yết giấy báo, giấy triệu tập nhiều lần nhưng chị Vũ Thị Th là bị đơn trong vụ án không đến Tòa án để làm việc. Tòa án đã xác minh tại gia đình thì được bà Ngô Thị K và ông Vũ Văn H là bố mẹ đẻ chị Th cho biết: Gia đình ông bà đã nhận được thông báo về việc thụ lý vụ án và giấy triệu tập chị Th đến làm việc. Ông bà có gọi điện thông báo cho chị Th (lúc đó đang ở Hà Nội) về nội dung thông báo thụ lý, giấy triệu tập của Tòa án, chị Th có nói lại với ông bà là để Tòa án giải quyết vắng mặt. Bà K và ông H nhận thay các văn bản tố tụng của Tòa án và cam kết thông báo, giao lại cho chị Th.

Chị Th vắng mặt tại phiên tòa ngày 26 tháng 7 và phiên tòa ngày hôm nay không có lý do.

+ Ý kiến của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa:

* Về tố tụng:

- Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Thư ký trong quá trình điều tra giải quyết vụ án và của HĐXX tại phiên tòa đã chấp hành đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

- Nguyên đơn chấp hành đúng, đầy đủ quy định của BLTTDS.

- Bị đơn mặc dù đã được Tòa án niêm yết các văn bản tố tụng hợp lệ, nhưng vắng mặt tại phiên tòa không có lý do.

* Về hướng giải quyết vụ án: Đề nghị HĐXX xử:

- Về quan hệ hôn nhân: Xử cho anh Trần Văn T ly hôn chị Vũ Thị Th.

- Về con chung: Giao con chung là cháu Trần Thị Kim N, sinh ngày 12 tháng 7 năm 2010 cho anh Trần Văn T tiếp tục nuôi dưỡng.

Ngoài ra đại diện VKS còn đề nghị giải quyết về án phí và quyền kháng cáo cho các đương sự.

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ các ý kiến của các bên đương sự, của Kiểm sát viên, HĐXX nhận định.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

[1]. Về tố tụng: Tòa án đã triệu tập, niêm yết, các văn bản tố tụng hợp lệ nhưng chị Vũ Thị Th không đến Tòa án làm việc và vắng mặt không có lý do. Mọi thủ tục tố tụng, quyết định của Tòa án nhân dân huyện Lạng Giang đối với chị Thủy đã được giao, niêm yết, thông báo đầy đủ. Như vậy quyền lợi của chị Th được bảo đảm theo Bộ Luật tố tụng dân sự. Chị Vũ Thị Th vắng mặt tại phiên tòa ngày 26/7/2017 và vắng mặt tại phiên tòa hôm nay mà không có lý do. Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227 BLTTDS Tòa án xét xử vắng mặt chị Th.

[2]. Về quan hệ hôn nhân: Anh Trần Văn T và chị Vũ Thị Th kết hôn với nhau năm 2009, trước khi kết hôn có được tự do tìm hiểu và có đăng ký kết hôn tại UBND xã Y, huyện L là hôn nhân hợp pháp theo quy định tại các Điều 9, 10, 11 Luật hôn nhân gia đình năm 2000.

Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống hòa thuận đến khoảng năm 2012 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn là do kinh tế khó khăn. Năm 2013, chị Th đi lao động xuất khẩu ở Đài Loan có thời hạn 3 năm, đến năm 2016 chị hết hạn hợp đồng, chị Th về nước nhưng không về nhà mà về nhà bố mẹ đẻ sinh sống. Anh T có sang đón gọi để vợ chồng đoàn tụ nhưng chị Th không về.

Điều đó chứng tỏ tình cảm vợ chồng giữa anh T và chị Th đã không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên nguyện vọng ly hôn của anh T là chính đáng, phù hợp với khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 nên HĐXX chấp nhận.

[3]. Về con chung: Theo lời khai của nguyên đơn và tài liệu có trong hồ sơ vụ án thì thấy anh T và chị Th có 01 con chung là Trần Thị Kim N, sinh ngày 12 tháng 7 năm 2010, hiện đang ở cùng anh T. Anh T đề nghị được tiếp tục nuôi con chung và không yêu cầu chị Th góp tiền cấp dưỡng. Cháu Trần Thị Kim N có nguyện vọng ở cùng anh T và do chị Th vắng mặt tại địa phương nên HĐXX tiếp tục giao con chung cho anh T tiếp tục nuôi dưỡng.

Về tài sản, công nợ anh T không yêu cầu Tòa án giải quyết nên HĐXX không đặt ra xem xét.

[4]. Về án phí: Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 về án phí, lệ phí Tòa án thì anh Trần Văn T phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.

[5]. Về quyền kháng cáo: Các đương sự được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

- Áp dụng: Điều 51, 56, 57, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014;

- Áp dụng khoản 1 Điều 28, Điều 35, Điều 39, khoản 4 Điều 147, khoản 2 Điều 227, Điều 271, khoản 1 Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự;

- Điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 về án phí, lệ phí Tòa án.

[1]. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho anh Trần Văn T ly hôn chị Vũ Thị Th.

[2]. Về nuôi con chung: Giao cho anh Trần Văn T tiếp tục nuôi con chung là Trần Thị Kim N, sinh ngày 12 tháng 7 năm 2010.

Vấn đề cấp dưỡng nuôi con không đặt ra xem xét giải quyết cho đến khi đương sự có yêu cầu.

Sau khi ly hôn, chị Vũ Thị Th được quyền thăm nom con chung, không ai được cản trở chị Th thực hiện quyền này.

[3] .Về án phí: Anh Trần Văn T phải chịu 300.000đ tiền án phí ly hôn nhưng được khấu trừ 300.000 đồng đã nộp tạm ứng án phí tại biên lai số AA/2015/0002280, ngày 19/4/2017 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyên Lạng Giang. Anh T đã nộp đủ tiền án phí dân sự sơ thẩm.

[4]. Về quyền kháng cáo:

Báo cho đương sự có mặt biết có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Báo cho đương sự vắng mặt biết có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

207
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 51/2017/HNGĐ-ST ngày 15/08/2017 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

Số hiệu:51/2017/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lạng Giang - Bắc Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 15/08/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về