Bản án 509/2020/HS-PT ngày 30/12/2020 về tội đánh bạc

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 509/2020/HS-PT NGÀY 30/12/2020 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Ngày 30 tháng 12 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai xét xử công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 428/2020/TLPT-HS ngày 03 tháng 11 năm 2020 đối với các bị cáo LÊ THÀNH L và đồng phạm do có kháng cáo của các bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 147/2020/HS-ST ngày 23 tháng 9 năm 2020 của Tòa án nhân dân huyện Xuân Lộc

- Các bị cáo có kháng cáo:

1. LÊ THÀNH L (L xà beng), sinh năm: 1957, tại Bình Phước; Nơi đăng ký thường trú: Ấp X, xã X1, huyện X2, tỉnh Đồng Nai; Nghề nghiệp: Buôn bán; Trình độ học vấn: 10/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Phật giáo; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Lê Văn P, sinh năm: 1937 (đã chết) và bà Trần Thị T, sinh năm: 1942; Vợ: Lê Thị L1, sinh năm: 1964; Có 03 người con, lớn nhất sinh năm: 1988, nhỏ nhất sinh năm: 1992; Tiền sự, tiền án: Không; Bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 04-01-2020 đến ngày 04-3-2020. Bị cáo tại ngoại. (Có mặt)

2. HUỲNH NGỌC T1 (Tư T1), sinh năm: 1980, tại Quảng Ngãi; Nơi đăng ký thường trú: Ấp 4, xã X1, huyện X2, tỉnh Đồng Nai; Nghề nghiệp: Làm nông; Trình độ học vấn: 6/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Phật giáo; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Huỳnh Văn H, sinh năm: 1957 và bà Nguyễn Thị P2, sinh năm: 1955; Vợ: Nguyễn Thị N, sinh năm: 1979; Có 03 người con, lớn nhất sinh năm: 2002, nhỏ nhất sinh năm: 2013; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo tại ngoại.(Có mặt)

3. LÊ THÀNH L2 (C),sinh năm: 1990, tại Đồng Nai; Nơi đăng ký thường trú: Ấp X, xã X1, huyện X2, tỉnh Đồng Nai; Nghề nghiệp: Buôn bán; Trình độ học vấn: 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Phật giáo; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Lê Thành L, sinh năm: 1957 và bà Lê Thị L1, sinh năm:1964; Vợ: Lê Thị D, sinh năm: 1986; Có 01 người con, sinh năm 2019; Tiền án: Không; Tiền sự: Có 01 Tiền sự (Công an xã Xuân Hòa ban hành Quyết định số 17/QĐ-XPVPHC ngày 28-3-2019, phạt 1.500.000đồng về hành vi đánh bạc, nộp phạt ngày 03-4-2020); Bị cáo tại ngoại (Có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

LÊ THÀNH L và HUỲNH NGỌC T1 bàn bạc cùng nhau tổ chức chơi tài xỉu thắng thua bằng tiền và chọn bãi đất trống của chị Nguyễn Thị L3 thuộc Ấp X, xã X1, huyện X2, làm địa điểm chơi tài xỉu. L và T1 thỏa thuận với Phan Thị Kim N1 kéo nguồn điện từ nhà N1 (đối diện) lắp bóng đèn điện chiếu sáng phục vụ cho việc chơi tài xỉu. L và T1 ngồi tại quán bán nước của L để rủ các đối tượng tham gia chơi rồi dẫn đến tại nơi chuẩn bị để cùng tham gia chơi tài xỉu, L và T1 là người làm cái. Ngoài ra, L còn bán nước phục vụ cho các đối tượng đến chơi để thu lợi. Khoảng 22 giờ ngày 04-01-2020, Lê Thành L2 đang làm cái lắc Tài xỉu dùm cho L và T1 để thắng thua bằng tiền với Lê Đình Thị T2, Nguyễn Thị Mỹ T3, Vũ Thị P3, Nguyễn Thị M và Nguyễn Thị Minh L4, bị Công an huyện Xuân Lộc bắt quả tang, thì LÊ THÀNH L2 và HUỲNH NGỌC T1 đã bỏ chạy. Ngày 06-4-2020, cả hai đến Công an huyện Xuân Lộc đầu thú.

Hành vi phạm tội của các bị cáo đã được cơ quan điều tra làm rõ và truy tố trước pháp luật.

Hành vi và số tiền của các bị cáo tham gia cụ thể như sau:

- LÊ THÀNH L và HUỲNH NGỌC T1 chọn bãi đất trống phía sau căn nhà hoang đối diện nhà Phan Thị Kim N1 làm địa điểm xốc tài xỉu và nhờ bị cáo N1 cho thắp sáng 01 bóng đèn điện, sẽ trả cho bị cáo N1từ 50.000 đồng đến 100.000 đồng/lần chơi tài xỉu. L còn bán nước uống cho các đối tượng tham gia chơi tài xỉu. Ngày 04-01-2020, T1 mang theo 3.000.000 đồng để chơi tài xỉu. L và T1 thống nhất, mỗi người góp 1.000.000 đồng để làm cái lắc tài xỉu với các nhà con tham gia, nếu thua sẽ góp tiếp, kết quả thắng thua chia đôi. L và T1 làm cái các người tham gia đặc gồm: Lê Đình Thị T2, Nguyễn Thị M, Nguyễn Thị Mỹ T3, Vũ Thị P3, Nguyễn Thị Minh L4, T1 hùn tiền với L và ngồi ngoài quan sát. Đến khoảng 22 giờ cùng ngày, LÊ THÀNH L2 đi chơi về, L đưa toàn bộ số tiền đang làm cái tài xỉu để nhờ LÊ THÀNH L2 làm cái lắc tài xỉu dùm, LÊ THÀNH L2 đồng ý. Sau đó, LÊ THÀNH L2 làm cái lắc tài xỉu dùm L và T1 được khoảng từ 4 đến 5 ván, thắng được khoảng hơn 2.000.000 đồng thì bị Lực lượng Công an bắt quả tang, LÊ THÀNH L2 vứt tiền lại và bỏ chạy. L đã bán được 60 chai nước cho các đối tượng chơi tài xỉu được 600.000 đồng.

- Lê Đình Thị T2 sử dụng 500.000 đồng dùng để chơi tài xỉu. T2 đặt tiền khoảng 06 ván và đến khi bị bắt thua 470.000 đồng, bị tạm giữ trên tay số tiền 30.000 đồng và trên người số tiền là 7.600.000 đồng, T2 khai không sử dụng số tiền 7.600.000 đồng để chơi tài xỉu.

- Nguyễn Thị M sử dụng 1.040.000 đồng trả nợ cho P3 50.000 đồng, còn lại 990.000 đồng M dùng để chơi tài xỉu. M tham gia khoảng 05 ván thua khoảng 300.000 đồng, khi thấy lực lượng công an đến bắt, M bỏ chạy, làm rớt tiền quanh khu vực chiếu bạc, nên trên người M chỉ còn 50.000 đồng.

- Nguyễn Thị Mỹ T3 sử dụng 230.000 đồng dùng để chơi tài xỉu. T3 đặt được 03 ván, trong đó 02 ván đầu thua 60.000 đồng, ván thứ 03 đặt 70.000 đồng, chưa có kết quả thắng thua thì bị bắt quả tang.

- Vũ Thị P3 sử dụng 1.050.000 đồng dùng để chơi tài xỉu, P3 đặt 50.000 đồng vào ô xỉu, chưa xác định thắng thua thì bị lực lượng công an bắt quả tang.

- Nguyễn Thị Minh L4 sử dụng 1.000.000 đồng dùng để chơi tài xỉu. Lý không nhớ đã tham gia chơi bao nhiêu ván, đến khi bị bắt quả tang Lý thua 380.000 đồng, bị tạm giữ trên người 620.000 đồng.

- Phan Thị Kim N1 đã cho LÊ THÀNH L và HUỲNH NGỌC T1 L kéo nguồn điện từ nhà mình để lắp bóng đèn điện chiếu sáng phục vụ cho việc chơi tài xỉu, L trả từ 50.000 đồng đến 100.000 đồng/lần chơi tài xỉu. Ngày 04-01- 2020, N1 được L trả số tiền 150.000 đồng.

Đối tượng Nguyễn Thị P2 khai nhận: Khoảng 21 giờ 30 ngày 04-01-2020, Phương đến địa điểm chơi tài xỉu để thu tiền nợ,đứng xem các đối tượng chơi tài xỉu, không tham gia. Khi thấy lực lượng công an Phương bỏ chạy, nên bị bắt giữ cùng các đối tượng tham gia chơi tài xỉu.

* Vật chứng vụ án thu giữ:

- Tổng số tiền 17.070.000 (Mười bảy triệu không trăm bảy mươi nghìn) đồng bao gồm: 50.000 (Năm mươi nghìn) đồng phát hiện trên chiếu bạc;

15.000.000 (Mười lăm triệu) đồng nằm rải rác trên nền đất sát bên chiếu bạc;

2.020.000 (Hai triệu không trăm hai mươi nghìn) đồng trên người các đối tượng sử dụng chơi tài xỉu.

- LÊ THÀNH L giao nộp 600.000 đồng tiền có được từ việc bán nước uống cho những người tham gia chơi tài xỉu; HUỲNH NGỌC T1 giao nộp 2.000.000 đồng dùng chơi tài xỉu; Phan Thị Kim N1 giao nộp 150.000 đồng tiền thu lợi từ việc cho L kéo điện chiếu sáng phục vụ chơi tài xỉu.

- 01 (Một) bộ xóc tài xỉu gồm: Chén, đĩa và 03 hột xí ngầu; 01 (Một) tấm bạt ni long, kích thước 80cm x 1,2 m, có in ký hiệu để chơi tài xỉu; 01 (Một) tấm bạt màu xanh, kích thước 3,6m x 4,8m; 15 (Mười lăm) cái ghế nhựa các loại; 01 (Một) cái bóng đèn điện hiệu Đại Quang và 01(Một) đoạn dây điện dài khoảng 15m; một số vỏ chai nước, dép các loại.

- Số tiền 7.600.000đ (Bảy triệu sáu trăm nghìn) đồng thu giữ trên người Lê Đình Thị T2, quá trình điều tra không xác định được số tiền này T2 sử dụng chơi tài xỉu. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Xuân Lộc đã trả lại cho bị cáo T2.

- 01 (Một) chiếc xe mô tô hiệu Yamaha Sirius, màu xanh đen, mang biển số: 60B5-613.00, của anh Lê Trọng Đ, ngày 04-01-2020, Nguyễn Thị Mỹ T3 mượn xe sử dụng, không dùng vào việc chơi tài xỉu, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Xuân Lộc đã trả lại cho anh Đ.

- 01 (Một) chiếc xe mô tô hiệu Dream, màu nâu, mang biển số: 60F8- 0756, của chị Lê Linh C1, ngày 04-01-2020, ông Phan Công Đ1 mượn sử dụng, có đến địa điểm chơi tài xỉu xem, không dùng chơi tài xỉu, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Xuân Lộc đã trả lại cho chị C1.

- 01 (Một) chiếc xe mô tô hiệu HONDA Air Blade, màu xanh đen, mang biển số 60B5-552.92; 01 (Một) chiếc xe mô tô không rõ nhãn hiệu, không biển số số máy: 1FC3-010712; số khung: RLCS1FC30EY010691, chưa xác định chủ sở hữu, không giấy tờ hợp pháp và không liên quan đến các vụ án khác, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Xuân Lộc tiếp tục điều tra, xác minh làm rõ.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số 147/2020/HS-ST ngày 23/9/2020 của TAND huyện Xuân Lộc đã áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1,khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 58 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017), xử phạt:

Bị cáo LÊ THÀNH L 07 (bảy) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày thi hành án, được trừ thời gian tạm từ ngày 04-01-2020 đến ngày 04-3-2020 Bị cáo HUỲNH NGỌC T1 06 (Sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày thi hành án.

Áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 58 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017), xử phạt: bị cáo LÊ THÀNH L2 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày thi hành án.

Ngày 02/10/2020, các bị cáo Lê Thành Long, LÊ THÀNH L2 kháng cáo xin giảm được hưởng mức án treo hoặc cải tạo không giam giữ.

Ngày 05/10/2020, bị cáo HUỲNH NGỌC T1 kháng cáo xin được hưởng án treo.

Ngoài ra trong vụ án này còn có các bị cáo: Lê Đình Thị T2; Nguyễn Thị Minh L4; Vũ Thị P3; Nguyễn Thị M; Nguyễn Thị Mỹ T3; Phan Thị Kim N1 đều bị xử phạt mức án Cải tạo không giam giữ và phạt tiền bổ sung 10.000.000 đ (mười triệu) nhưng không kháng cáo nên tòa không triệu tập.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo luật định.

- Quan điểm Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai: Qua xem xét toàn bộ nội dung vụ án và đơn kháng cáo của các bị cáo cùng lời trình bày của các bị cáo tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay. VKSND tỉnh thấy rằng: Xét tính chất mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo; mức án tuyên phạt các bị cáo LÊ THÀNH L 07 tháng tù giam; LÊ THÀNH L2 và Nguyễn Hữu T1 06 tháng tù giam về hành vi đánh bạc theo khoản 1 Điều 321 BLHS là phù hợp, các bị cáo không cung cấp thêm tình tiết mới nên không có căn cứ chấp nhận. Do đó đề nghị hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo; Giữ nguyên bản án sơ thẩm của TAND huyện Xuân Lộc. Riêng các tình tiết các bị cáo L, T1, L2 trình bày tại phiên tòa và bổ sung các tình tiết mới như: Hoàn cảnh gia đình khó khăn, có con còn nhỏ, hoàn cảnh gia đình khó khăn, bị cáo L đang mang nhiều bệnh tật và đã lớn tuổi ... Đề nghị hội đồng xét xử xem xét giải quyết theo quy định pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo khai nhận hành vi phạm tội như bản án sơ thẩm đã nêu. Hành vi của các bị cáo Lê Thành L, LÊ THÀNH L2, HUỲNH NGỌC T1 đã phạm vào tội “Đánh bạc” theo quy định tại Khoản 1, Điều 321 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

[2] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm trật tự quản lý hành chính tại địa phương. Cấp sơ thẩm cũng đã xem xét cho các bị cáo có tình tiết giảm nhẹ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; các bị cáo Lê Thành L, HUỲNH NGỌC T1 phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng là những tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm i, s Khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo LÊ THÀNH L mức án 07 (bảy) tháng tù; các bị cáo HUỲNH NGỌC T1, LÊ THÀNH L2 mức án 06 (Sáu) tháng tù Xét kháng cáo của các bị cáo, Hội đồng xét xử các bị cáo chưa tiền án tiền sự, đều có nơi cư trú rõ ràng, các bị cáo Lê Thành L, HUỲNH NGỌC T1 phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; bị cáo HUỲNH NGỌC T1 là lao động chính trong gia đình đang nuôi con nhỏ ăn học; bị cáo LÊ THÀNH L tuổi đã cao không còn khả năng lao động, huyết áp không ổn định, bị bệnh trào ngược dạ dày, đau cột sống thoát vị đĩa điệm đang điều trị, hoàn cảnh gia đình rất khó khăn. Do đó Hội đồng xét xử xem xét không cần thiết phải cách ly các bị cáo ra khỏi xã hội mà giao bị cáo cho chính quyền địa phương nơi bị cáo cư trú giám sát, giáo dục cũng đủ nghiêm. Do đó sửa bản án hình sự sơ thẩm, chuyển sang hình phạt cải tạo không giam giữ đối với các bị cáo Lê Thành L, HUỲNH NGỌC T1 đồng thời áp dụng hình phạt bổ sung bằng tiền cho các bị cáo cũng đũ nghiêm và phù hợp pháp luật.

Do các bị cáo L, T1 có hoàn cảnh khó khăn, không có việc làm ổn định nên Hội đồng xét xử xem xét miễn khấu trừ thu nhập cho các bị cáo.

Đối với bị cáo LÊ THÀNH L2 trong vụ án này chỉ giữ vai trò thứ yếu, không tham gia đánh bạc nhưng cầm cái dùm bị cáo T1 và L nên phạm tội đồng phạm với vai trò giúp sức, không có hưởng lợi, bản thân là lao động chính trong gia đình, có con còn nhỏ không người chăm sóc (mới sinh ngày 20.12. 2019), hoàn cảnh gia đình khó khăn, cha mẹ già yếu bệnh tật (Là con bị cáo Lê Thành L) nên mức án tù giam là quá nghiêm khắc nghĩ cần chuyển sang hình phạt tiền là hình phạt chính cũng đủ để răn đe, giáo dục phòng ngừa chung và thể hiện tính nhân đạo của pháp luật.

Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai không phù hợp với quan điểm của Hội đồng xét xử nên không được chấp nhận nhận.

[3] Về án phí: Các bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điểm b, Khoản 1, Điều 355, Điểm e, Khoản 1 Điều 357 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015;

1. Chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Lê Thành L, LÊ THÀNH L2, HUỲNH NGỌC T1, sửa bản án sơ thẩm về phần hình phạt.

Căn cứ Khoản 1 Điều 321; Điều 36, Điều 58 Điểm i, s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017);

Xử phạt bị cáo LÊ THÀNH L 07 (bảy) tháng cải tạo không giam giữ về tội “Đánh bạc”. Thời hạn tính từ ngày tuyên án phúc thẩm, được khấu trừ thời gian tạm giam trước đây từ ngày 04-01-2020 đến ngày 04-3-2020 (Hai tháng) là tương đương 06 (Sáu) tháng cải tạo không giam giữ.

Về hình phạt bổ sung: Phạt bổ sung bị cáo số tiền 10.000.000đ (mười triệu) đồng.

Xử phạt bị cáo HUỲNH NGỌC T1 06 (sáu) tháng cải tạo không giam giữ về tội “Đánh bạc”. Thời hạn tính từ ngày tuyên án phúc thẩm.

Về hình phạt bổ sung: Phạt bổ sung bị cáo số tiền 10.000.000đ (mười triệu) đồng.

Miễn khấu trừ thu nhập cho các bị cáo LÊ THÀNH L và HUỲNH NGỌC T1.

Giao các bị cáo Lê Thành Long, HUỲNH NGỌC T1 cho UBND xã Xuân Hòa, huyện Xuân Lộc, tỉnh Đồng Nai giám sát, giáo dục trong thời gian chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ.

Căn cứ Khoản 1 Điều 321, Điều 17, Điều 35, Điều 58, Khoản 1 Khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017);

Xử phạt bị cáo LÊ THÀNH L2 số tiền 30.000.000đ ( Ba mươi triệu) đồng.

2. Về án phí: Căn cứ Nghị quyết 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Các bị cáo không phải nộp án phí hình sự phúc thẩm.

3. Các Quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

4. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

221
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 509/2020/HS-PT ngày 30/12/2020 về tội đánh bạc

Số hiệu:509/2020/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về