Bản án 502/2018/HS-PT ngày 14/11/2018 về tội cướp giật tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 502/2018/HS-PT NGÀY 14/11/2018 VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN

Ngày 14 tháng 11 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 468/2018/HSPT ngày 11 tháng 10 năm 2018 đối với bị cáo Chu Xuân T do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 73/2018/HS-ST ngày 04 tháng 9 năm 2018 của Tòa án nhân dân quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh.

- Bị cáo có kháng cáo:

Chu Xuân T; giới tính: nam; sinh ngày 14 tháng 01 năm 1982 tại tỉnh Yên Bái; thường trú: số A tổ B, khu phố C, phường D, Quận E, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: không; trình độ văn hóa: 10/12; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: không; con ông: CVS và bà: ĐTN; hoàn cảnh gia đình: bị cáo chưa có vợ, con; tiền sự: không; Tiền án:

- Ngày 29/11/2009, bị Tòa án nhân dân huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai xử phạt 02 năm 06 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” (Bản án số 84/2009/HSST – BL 260-261); ngày 19/11/2011, chấp hành xong án phạt tù (Giấy chứng nhận chấp hành xong án phạt tù số 737/GCN của Giám thị Trại giam Xuyên Mộc – BL 262);

- Ngày 17/7/2013, bị Tòa án nhân dân quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 05 năm tù về tội “Cướp giật tài sản” (Bản án số 173/2013/HSST – BL 263-265); Chu Xuân T kháng cáo; ngày 11/12/2013, bị Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm, không chấp nhận kháng cáo của Chu Xuân T, giữ nguyên bản án sơ thẩm (Bản án số 796/2013/HSPT – BL 266-268);

ngày 28/4/2017 chấp hành xong án phạt tù (Công văn số 114 TGCB(HS) ngày 03/5/2018 của Trại giam Châu Bình – BL 269);

Nhân thân: theo Công văn số 217/CS1-GDTV ngày 03/5/2018 của Cơ sở cai nghiện ma túy số 1 (BL 255) thì: ngày 24/10/2002, Chu Xuân T bị đưa vào cơ sở cai nghiện ma túy số 1 (trước đây là Trường Giáo dục đào tạo và Giải quyết việc làm số 6) theo Quyết định số 14999/QĐ-UB ngày 25/11/2002 của Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh (BL 256); tái hòa nhập cộng đồng ngày 26/12/2006 theo Quyết định số 8963/QĐ-UBND ngày 26/12/2006 của Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh (BL 258);

Bị bắt, tạm giam ngày: 02/4/2018 (có mặt).

Ngoài ra, vụ án còn có Nguyễn Hoàng T không kháng cáo, không bị kháng cáo, kháng nghị.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 18 giờ 45 phút ngày 02/4/2018, bị cáo Chu Xuân T điều khiển xe mô tô biển số 52N5-Y chở Nguyễn Hoàng T đã có hành vi giật điện thoại di động của bà Thái Nguyễn Hoàng L đang ngồi trước hẻm G đường H, Phường I, quận K, Thành phố Hồ Chí Minh rồi tăng ga bỏ chạy. Bà L tri hô, đuổi theo thì được người dân xung quanh hỗ trợ bắt giữ được Chu Xuân T và Nguyễn Hoàng T cùng vật chứng là chiếc điện thoại di động hiệu Xiaomi Redmi Note 4X và phương tiện dùng vào việc phạm tội là chiếc xe mô tô biển số 52N5-6913.

Quá trình điều tra, Cơ quan điều tra tiến hành xác định địa điểm, thực nghiệm điều tra hiện trường tại địa điểm Chu Xuân T và Nguyễn Hoàng T thực hiện hành vi cướp giật điện thoại di động của bà L, kết quả phù hợp với lời khai của những người tham gia tố tụng (BL 135, 136, 137, 138, 139, 140, 141, 270- 271, 284-285).

Bên cạnh đó, Cơ quan điều tra đã tiến hành rà soát, trích xuất camera ghi hình ảnh Chu Xuân T và Nguyễn Hoàng T thực hiện hành vi như đã nêu trước hẻm G đường H, Phường I, quận K (BL 123, 124, 125, 126). Kết quả nhận dạng cũng cho thấy Chu Xuân T là người điều khiển xe mô tô biển số 52N5-Y chở Nguyễn Hoàng T trong lúc Nguyễn Hoàng T giật điện thoại di động từ bị hại (BL 167-168, 169-170).

Tại Kết luận định giá tài sản trong tố tụng hình sự số 111/HĐĐGTS-TTHS ngày 27/4/2018 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thuộc Ủy ban nhân dân quận Tân Bình (BL 100) thể hiện:

Điện thoại di động hiệu Xiaomi Redmi Note 4X màu xanh ngọc. Hàng đã qua sử dụng, tình trạng hoạt động tốt. Đơn giá 3.400.000 đồng/ cái. Tài sản trên được định giá vào thời điểm tháng 4/2018.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 73/2018/HS-ST ngày 04 tháng 9 năm 2018 của Tòa án nhân dân quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định:

Tuyên bố bị cáo Chu Xuân T phạm tội “Cướp giật tài sản”.

2 Áp dụng điểm d, i khoản 2 Điều 171; điểm h, s, x khoản 1 Điều 51; Điều 17; Điều 58 của Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017;

Xử phạt: Chu Xuân T 05 (năm) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 02/4/2018. Ngoài ra, bản án còn xử phạt Nguyễn Hoàng T 06 (sáu) năm tù về tội “Cướp giật tài sản”, tuyên về xử lý vật chứng và quyền kháng cáo theo luật định.

Sau khi xử sơ thẩm, ngày 11/9/2018, bị cáo Chu Xuân T có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Chu Xuân T khai nhận hành vi phạm tội như nội dung bản án sơ thẩm và giữ nguyên yêu cầu kháng cáo.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh sau khi phân tích tính chất của vụ án, những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ, đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Khoảng 18 giờ 45 phút ngày 02/4/2018, bị cáo Chu Xuân T điều khiển xe mô tô biển số 52N5-Y ép sát vào bà Thái Nguyễn Hoàng L (đang ngồi trước hẻm G đường H, Phường I, quận K, Thành phố Hồ Chí Minh) để Nguyễn Hoàng T (ngồi sau xe) giật chiếc điện thoại di động của bà L rồi tăng ga bỏ chạy nhưng bị người dân bắt giữ. Qua định giá, chiếc điện thoại di động hiệu Xiaomi Redmi Note 4X có giá trị là 3.400.000 đồng. Với hành vi trên, Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo Chu Xuân T về tội “Cướp giật tài sản” là đúng người, đúng tội.

[2] Bị cáo Chu Xuân T có kháng cáo, đơn kháng cáo trong hạn luật định là hợp lệ.

[3] Xét kháng cáo của bị cáo, Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm xét thấy:

Bị cáo Chu Xuân T đã tái phạm, chưa được xóa án tích mà tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội do cố ý; khi thực hiện hành vi phạm tội, bị cáo sử dụng xe mô tô làm phương tiện phạm tội nên thuộc trường hợp “tái phạm nguy hiểm” và “dùng thủ đoạn nguy hiểm” quy định tại điểm i và d khoản 2 Điều 171 của Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017. Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo mức hình phạt 05 (năm) năm tù là đã xem xét các tình tiết giảm nhẹ như thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, tài sản chiếm đoạt được thu hồi trả cho bị hại, gia đình có công cách mạng...

Tại phiên tòa phúc thẩm, không có tình tiết nào mới để xem xét cho bị cáo, mức hình phạt đã tuyên là phù hợp nên Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

[4] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm a khoản 1, khoản 2 Điều 355; Điều 356 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Chu Xuân T. Giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Tuyên bố bị cáo Chu Xuân T phạm tội “Cướp giật tài sản”.

Áp dụng điểm d, i khoản 2 Điều 171; điểm h, s, x khoản 1 Điều 51; Điều 17; Điều 58 của Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017;

Xử phạt: Chu Xuân T 05 (năm) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 02/4/2018. Bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

236
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 502/2018/HS-PT ngày 14/11/2018 về tội cướp giật tài sản

Số hiệu:502/2018/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 14/11/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về