Bản án 50/2021/HS-ST ngày 29/04/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HẢI DƯƠNG -TỈNH HẢI DƯƠNG

BẢN ÁN 50/2021/HS-ST NGÀY 29/04/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 29 tháng 4 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 41/2021/TLST-HS ngày 02/4/2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 44/2021/HSST-QĐ ngày 15/4/2021, Thông báo thay đổi thời gian xét xử ngày 26/4/2021 đối với:

- Bị cáo: Nguyễn Ngọc H, sinh năm 1982 tại Hải Dương; ĐKHKTT, chỗ ở: phố B, phường T, thành phố H, tỉnh Hải Dương; Giới tính: Nam; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: lao động tự do; Trình độ học vấn: 12/12; Con ông Nguyễn Văn H, sinh năm 1955 và bà Phạm Thị H, sinh năm 1955; Gia đình có 03 anh em, bị cáo là con thứ ba; Vợ: Nguyễn Thúy T, sinh năm 1984; Có 03 con, lớn sinh năm 2002, nhỏ sinh năm 2017; Tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giữ từ ngày 04/01/2021, chuyển tạm giam từ ngày 07/01/2021 đến nay tại Trại tạm giam Công an tỉnh Hải Dương. Có mặt tại phiên tòa.

- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Chị Đàm Thị Lan A, sinh năm 2000 Địa chỉ: Khu dân cư P, phường T, thành phố H, tỉnh Hải Dương. Vắng mặt tại phiên tòa, có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.

- Người làm chứng:

+ Chị Nguyễn Thị D, sinh năm 1980.

Địa chỉ: khu P, phường T, thành phố H, tỉnh Hải Dương.

+ Anh Vũ Thế C, sinh năm 1973.

Địa chỉ: phố H, phường Q, thành phố H, tỉnh Hải Dương. Những người làm chứng đều vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Ngọc H làm lái xe chở thuê cho chị Nguyễn Thị D ở khu dân cư P, phường T, thành phố H. Khoảng 20 giờ 45 phút ngày 04/01/2021 H điều khiển xe ô tô Huyndai-County – BKS: 34B-027.XX cùng chị D đỗ trước cửa nhà đường Đ, phường B, thành phố H để chị D đợi trả hàng cho khách. Sau đó H đi bộ một mình vào trong ngõ trên đường Đ, phường B, thành phố H mua được một túi ma túy tổng hợp của người phụ nữ (không rõ họ tên, địa chỉ) với số tiền 600.000 đồng rồi đi ra xe ô tô. Khoảng 21 giờ cùng ngày, khi H đang cầm gói ma túy ở bàn tay phải ngồi trên xe ô tô thì bị Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an thành phố Hải Dương kiểm tra, H thả gói ma túy xuống dưới sàn xe gần vị trí ghế lái đang ngồi. Công an thu giữ tại vị trí H ngồi 01 gói nilon màu trắng, kích thước (3x5) cm, bên trong chứa chất tinh thể dạng cục màu trắng, H khai nhận là ma túy tổng hợp cất giấu để sử dụng và thu giữ 01 xe ô tô nhãn hiệu Hyundai County biển số 34B - 027.XX trước sự chứng kiến của anh Vũ Thế C và chị Nguyễn Thị D.

Tại Kết luận giám định số 71/KLGĐ-PC09 ngày 07/01/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hải Dương kết luận: Chất rắn (dạng tinh thể) màu trắng niêm phong trong phong bì ghi thu của Nguyễn Ngọc H gửi đến giám định là ma túy, loại Methamphetamine, khối lượng 0,261 gam.

Về vật chứng: Đối với 0,221 gam Methamphetamine hoàn lại sau giám định đựng trong phong bì số 71/KLGĐ- PC09 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hải Dương là chất Nhà nước cấm lưu hành sẽ được xử lý theo quy định của pháp luật. Cơ quan điều tra đã trả lại chiếc xe ô tô nhãn hiệu Hyundai County biển số 34B- 027.XX cho chủ sở hữu hợp pháp là chị Đàm Thị Lan A.

Tại Cáo trạng số 45/CT-VKSTPHD ngày 31/3/2021, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hải Dương truy tố bị cáo Nguyễn Ngọc H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự, khung hình phạt tù từ 01 năm tù đến 05 năm tù.

Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo thành khẩn khai báo, khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội và thừa nhận bản cáo trạng truy tố về tội danh và điều luật là đúng với hành vi của bị cáo đã thực hiện, bị cáo không bổ sung tài liệu, chứng cứ gì mới tại phiên tòa hôm nay và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hải Dương thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử tại phiên tòa trình bày quan điểm giữ nguyên nội dung cáo trạng đã truy tố. Trên cơ sở phân tích, đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội, hậu quả, điều kiện, nguyên nhân phạm tội, nhân thân của bị cáo. Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử:

Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Ngọc H, phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Về hình phạt chính: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; khoản 1 điều 38 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Ngọc H từ 15 tháng tù đến 18 tháng tù, thời hạn tính từ ngày tạm giữ (04/01/2021).

Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 0,221 gam Methamphetamine hoàn lại sau giám định.

Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Luật phí và lệ phí số 97/2015/QH13 ngày 25/11/2015; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn giảm, thu nộp, quản lý sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

Lời nói sau cùng của bị cáo: Mong Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để bị cáo sớm trở về với gia đình, lao động kiếm tiền nuôi các con còn nhỏ, vợ bị cáo nhiều bệnh, ốm đau thường xuyên nên cuộc sống của vợ con ở nhà rất vất vả, khó khăn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Lời khai của bị cáo Nguyễn Ngọc H tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai người làm chứng, biên bản bắt người phạm tội quả tang, kết luận giám định và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 21 giờ 00 phút ngày 04/01/2021 tại khu vực đường Đ, phường B, Thành phố H, Nguyễn Ngọc H cất giấu trái phép 0,261 gam Methamphetamine là ma túy đá để sử dụng thì bị Công an Thành phố Hải Dương bắt, thu giữ vật chứng. Bị cáo có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được ma túy là chất gây nghiện Nhà nước cấm sản xuất, quản lý và sử dụng, nhưng vì mục đích thỏa mãn cơn nghiện, ý thức coi thường pháp luật nên bị cáo vẫn cố ý thực hiện. Việc bị cáo cất giấu trái phép 0,261 gam Methamphetamine để sử dụng là vi phạm pháp luật. Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Do vậy, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hải Dương truy tố bị cáo về tội danh và điều luật nêu trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[2]. Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm vào chính sách độc quyền về quản lý chất ma túy của Nhà nước, xâm phạm trật tự an toàn xã hội được pháp luật bảo vệ; bị cáo nhận thức được chất ma túy là chất gây nghiện, làm suy kiệt sức khỏe, gây ra nhiều bệnh tật và là nguyên nhân phát sinh nhiều loại tội phạm khác, tuy nhiên bị cáo vẫn cố ý thực hiện để thỏa mãn cơn nghiện. Bị cáo phạm tội nghiêm trọng, là đối tượng nghiện ma túy, nên cần áp dụng hình phạt tù có thời hạn, xử phạt nghiêm mới đủ tác dụng răn đe, giáo dục bị cáo trở thành công dân tốt, chấp hành đúng pháp luật và phòng ngừa chung trong xã hội. Hội đồng xét xử sẽ xem xét nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự để quyết định mức hình phạt phù hợp với tính chất, mức độ hậu quả của hành vi phạm tội bị cáo đã thực hiện.

[3]. Về nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

- Về nhân thân: Bị cáo là người làm lái xe thuê, chăm chỉ, chịu khó lao động và có trách nhiệm với gia đình; thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của công dân ở nơi cư trú, nơi làm việc, chưa có tiền án, tiền sự.

- Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

- Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

[4]. Về hình phạt bổ sung: Vợ chồng bị cáo làm nghề lao động tự do, công việc không ổn định, có 03 con nhỏ đều chưa trưởng thành; bản thân bị cáo không có tài sản riêng, tài sản của gia đình không có nhiều giá trị, nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[5]. Về vật chứng:

- Đối với 0,221 gam ma túy loại Methamphetamine (hoàn lại sau giám định) là chất Nhà nước cấm lưu hành, tịch thu cho tiêu hủy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

- Chiếc xe ô tô Huyndai-County – BKS: 34B-027.XX do bị cáo lái thuê là của chị Đàm Thị Lan A, sinh năm 2000, cư trú tại Khu dân cư P, phường T, Thành phố H sở hữu, cơ quan điều tra Công an Thành phố Hải Dương đã trả xe cho chị Lan A, chị Lan A nhận lại và không có ý kiến gì nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[6]. Về án phí và quyền kháng cáo: Bị cáo phạm tội nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định Bộ luật Tố tụng hình sự; Luật phí và lệ phí và các văn bản quy định về mức thu, miễn giảm, thu nộp, quản lý sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Bị cáo và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

[7]. Về vấn đề khác: Trong quá trình điều tra không làm rõ được họ tên, địa chỉ, hành vi cụ thể đối tượng bán ma túy cho bị cáo nên không có căn cứ xử lý;

[8]. Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Hải Dương, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hải Dương, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm c khoản 1 Điều 47; khoản 1 Điều 38 Bộ luật hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106, Điều 136, 331, 333 Bộ luật Tố tụng hình sự; Luật phí và lệ phí số 97/2015/QH13 ngày 25/11/2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn giảm, thu nộp, quản lý sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

[1]. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Ngọc H phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy".

[2]. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Nguyễn Ngọc H 12 (mười hai) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ (ngày 04/01/2021).

[3]. Về xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 0,221 gam ma túy loại Methamphetamine (hoàn lại sau giám định) được niêm phong trong phong bì số 71/KLGĐ-PC09 có dấu giáp lai của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hải Dương (Đặc điểm vật chứng theo biên bản giao nhận vật chứng giữa Công an thành phố Hải Dương và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Hải Dương ngày 02/4/2021).

[4]. Về án phí: Buộc bị cáo Nguyễn Ngọc H phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

[5]. Về quyền kháng cáo: Bị cáo Nguyễn Ngọc H có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm; Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo những vấn đề trực tiếp liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

169
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 50/2021/HS-ST ngày 29/04/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:50/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Hải Dương - Hải Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về