Bản án 50/2021/HSST ngày 21/05/2021 về tội đánh bạc

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYN SÓC SƠN, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 50/2021/HSST NGÀY 21/05/2021 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Trong ngày 21 tháng 5 năm 2021 tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Sóc Sơn- Tp Hà Nội xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 30/2021/HSST ngày 22 tháng 3 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 34/2021/QĐXXST- HS ngày 01/4/2021; Quyết định hoãn phiên tòa số 18/2021/HSST-QĐ và Thông báo mở lại phiên tòa đối với các bị cáo:

1. Họ và tên: Nguyễn Thanh Q, sinh năm 1970.

ĐKNKTT và nơi ở: Thôn T, xã P, huyện Sóc Sơn, T/p Hà Nội; Nghề nghiệp: Làm ruộng; Trình độ văn hoá: Lớp 7/10; Con ông Nguyễn Xuân L, con bà Ngô Thị C; Vợ: Ngô Thị T, con: Có 02 con, lớn sinh 1988, nhỏ sinh 1990; Theo danh chỉ bản số 000000151 do Công an huyện Sóc Sơn lập ngày 31/12/2020 thì về nhân thân bị cáo có 01 tiền án.

Tại Bản án số 85/2007/HSST ngày 28/8/2007, Tòa án nhân dân huyện Sóc Sơn xử phạt Q 08 tháng tù, cho hưởng án treo, thử thách 18 tháng kể từ ngày tuyên án về tội Đánh bạc (Bản án đã được xóa).

Tiền sự: Không Bị tạm giữ từ ngày 28/12/2020 đến ngày 31/12/2020.

Đang bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú.

Bị cáo tại ngoại, có mặt tại phiên toà.

2. Họ và tên: Nguyễn Văn H, sinh năm 1983.

ĐKNKTT và nơi ở: Thôn T, xã P, huyện Sóc Sơn, T/p Hà Nội; Nghề nghiệp: Làm ruộng; Trình độ văn hoá: Lớp 6/12; Con ông Nguyễn Văn N, con bà Nguyễn Thị L; Vợ: Lê Thị V, con: Có 02 con, lớn sinh 2003, nhỏ sinh 2006; Theo danh chỉ bản số 000000149 do Công an huyện Sóc Sơn lập ngày 31/12/2020 thì về nhân thân bị cáo có 01 tiền án.

Tại Bản án số 147/2015/HSST ngày 16/9/2015, Tòa án nhân dân huyện Sóc Sơn xử phạt Nguyễn Văn H 12 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 24 tháng kể từ ngày tuyên án về tội Đánh bạc (Bản án đã được xóa).

Tiền sự: Không Bị tạm giữ từ ngày 28/12/2020 đến ngày 31/12/2020.

Đang bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú. Bị cáo tại ngoại, có mặt tại phiên toà.

3. Họ và tên: Lê Văn T, sinh năm 1969.

ĐKNKTT và nơi ở: Thôn T, xã P, huyện Sóc Sơn, T/p Hà Nội; Nghề nghiệp: Làm ruộng; Trình độ văn hoá: Lớp 7/10; Con ông Lê Văn D, con bà Nguyễn Thị S; Vợ: Nguyễn Thị L, con: Có 02 con, lớn sinh 1991, nhỏ sinh 1992; Theo danh chỉ bản số 000000148 do Công an huyện Sóc Sơn lập ngày 31/12/2020 thì về nhân thân bị cáo có 01 tiền án.

Tại Bản án số 147/2015/HSST ngày 16/9/2015, Tòa án nhân dân huyện Sóc Sơn xử phạt Tặng 09 tháng tù, cho hưởng án treo, thử thách 18 tháng kể từ ngày tuyên án về tội Đánh bạc (Bản án đã được xóa).

Tiền sự: Không Bị tạm giữ từ ngày 28/12/2020 đến ngày 31/12/2020.

Đang bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú. Bị cáo tại ngoại, có mặt tại phiên toà.

4. Họ và tên: Nguyễn Văn T1, sinh năm 1982.

ĐKNKTT và nơi ở: Thôn T, xã P, huyện Sóc Sơn, T/p Hà Nội; Nghề nghiệp: Làm ruộng; Trình độ văn hoá: Lớp 7/12; Con ông Nguyễn Văn B, con bà Lương Thị Đ; Vợ: Trịnh Thị Đ, con: Có 02 con, lớn sinh 2004, nhỏ sinh 2005; Theo danh chỉ bản số 000000146 do Công an huyện Sóc Sơn lập ngày 31/12/2020 thì bị cáo không có tiền án, tiền sự.

Bị tạm giữ từ ngày 28/12/2020 đến ngày 31/12/2020.

Đang bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú. Bị cáo tại ngoại, có mặt tại phiên toà.

5. Họ và tên: Trần Văn Q1, sinh năm 1985.

ĐKNKTT và nơi ở: Thôn T, xã P, huyện Sóc Sơn, T/p Hà Nội; Nghề nghiệp: Làm ruộng; Trình độ văn hoá: Lớp 8/12; Con ông Trần Văn Q, con bà Trịnh Thị C; Vợ: Trịnh Thị T, con: Có 03 con, lớn nhất sinh 2007, nhỏ nhất sinh 2015; Theo danh chỉ bản số 000000146 do Công an huyện Sóc Sơn lập ngày 31/12/2020 thì bị cáo không có tiền án, tiền sự.

Bị tạm giữ từ ngày 28/12/2020 đến ngày 31/12/2020.

Đang bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú. Bị cáo tại ngoại, có mặt tại phiên toà.

Người làm chứng: Anh Nguyễn Tiến C, sinh năm 2000 (vắng mặt) Địa chỉ: Thôn L, xã L, huyện Sóc Sơn, T/p Hà Nội.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dung vụ án được tóm tắt nh sau:

Vào khoảng 16h00’ ngày 28/12/2020, tại nhà Nguyễn Thanh Q, sinh năm 1970, ở thôn T, xã P, huyện Sóc Sơn, Hà Nội, Công an xã P, huyện Sóc Sơn, Hà Nội bắt quả tang Nguyễn Thanh Q, Nguyễn Văn H, Lê Văn T, Nguyễn Văn T1, Trần Văn Q đang bạc đánh sát phạt nhau bằng tiền dưới hình thức “Đánh sâm”. Cơ quan công an đã lập biên bản phạm tội quả tang, thu giữ toàn bộ tang vật gồm:

01 chiếu cói; 02 bộ bài tú lơ khơ, 52 cây/1 bộ; thu giữ trên chiếu bạc số tiền 5.395.000 đồng. Ngoài ra còn thu giữ trên người các đối tượng 3.000.000 đồng (trong đó thu giữ của Q 1.000.000đ; thu giữ của H 2.000.000đ – đều sử dụng vào việc đánh bạc). Sau đó đưa các đối tượng cùng tang vật về trụ sở cơ quan công an để điều tra xử lý.

Quá trình điều tra làm rõ: Chiều ngày 28/12/2020, Nguyễn Thanh Q gọi điện thoại rủ Nguyễn Văn T1, Trần Văn Q1, Lê Văn T, Nguyễn Văn H đến nhà Quang chơi, uống nước. Khi đang ngồi uống nước thì Q1, T1, H, Q rủ nhau đánh bạc, tất cả đồng ý. Q lấy 01 chiếu cói trải xuống phòng khách và lấy 02 bộ bài tú lơ khơ 52 cây/1 bộ để đánh bạc. Các bị c¸o thống nhất đánh bạc bằng tiền dưới hình thức đánh sâm, với mức cược là 10.000đ/1 lá bài. Nếu ai được sâm thì sẽ thu của những người còn lại 200.000đ và phải bỏ ra 50.000 đồng cho chủ nhà. Quá trình đánh bạc chưa ai được sâm nên chưa ai phải bỏ tiền ra cho chủ nhà. Khi Q, H, T1, Q1 đang đánh bạc thì Lê Văn T đến và cùng tham gia đánh bạc. Quá trình đánh bạc không có ai bỏ về trước, không có ai vào thêm sau, không có người đứng ra tổ chức, canh gác, bảo vệ, không có ai thu tiền hồ. 05 bị c¸o cùng nhau đánh bạc đến 16h00 cùng ngày thì bị cơ quan công an bắt quả tang và thu giữ tang vật như đã nêu trên.

Tại Cơ quan điều tra, các bị c¸o khai nhận về số tiền sử dụng vào việc đánh bạc như sau:

+ Nguyễn Văn H khai có 2.000.000 đồng sử dụng vào việc đánh bạc. Khi bị bắt quả tang, Hải đang thắng 200.000đ để trên chiếu bạc đã bị cơ quan công an thu giữ. Số tiền 2.000.000đ Hải cất giữ trên người đã bị cơ quan công an thu giữ.

+ Nguyễn Thanh Q khai có 1.000.000 đồng sử dụng vào mục đích đánh bạc. Khi bị bắt quả tang, Quang không thắng, không thua, toàn bộ số tiền 1.000.000đ vẫn để trên người đã bị cơ quan công an thu giữ.

+ Nguyễn Văn T1 khai có 380.000 đồng dùng vào việc đánh bạc. Khi bị bắt quả tang, Thủy đã thua hết toàn bộ số tiền mang theo người.

+ Lê Văn T khai có 200.000 đồng đã sử dụng để đánh bạc. Khi bị bắt quả tang, Tặng đang hòa, không thắng, không thua. Toàn bộ số tiền vẫn để ở chiếu bạc đã bị cơ quan công an thu giữ.

+ Trần Văn Q1 khai: có 150.000 đồng sử dụng để đánh bạc. Khi cơ quan công an bắt quả tang, Quyết đang thua 120.000 đồng, còn 30.000 đồng vẫn để trên chiếu bạc đã bị thu giữ.

Căn cứ biên bản phạm tội quả tang và biên bản tạm giữ số tiền trên người H và Q xác định: Tổng số tiền các bị can Nguyễn Thanh Q, Nguyễn Văn T1, Trần Văn Q1, Lê Văn T, Nguyễn Văn H sử dụng vào việc đánh bạc là 8.395.000 đồng (tám triệu, ba trăm chín mươi lăm nghìn đồng).

Về tang vật của vụ án gồm: 01 chiếu cói, 02 bộ bài tú lơ khơ và 8.395.000 đồng (tám triệu, ba trăm chín mươi lăm nghìn đồng).

Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên toà, Nguyễn Thanh Q, Nguyễn Văn H, Lê Văn T, Nguyễn Văn T1, Trần Văn Q1 đã khai nhận hành vi phạm tội của mình. Lời khai nhận tội của các bị cáo phù hợp với biên bản kiểm tra; vật chứng thu giữ và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Cáo trạng số 23/CT-VKS-HS ngày 16/3/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Sóc Sơn truy tố các bị cáo về tội “Đánh bạc” theo Khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Sóc Sơn giữ quyền công tố tại phiên tòa sau khi phân tích, đánh giá tính chất, nội dung vụ án giữ nguyên quyết đinh truy tố bị cáo về tội danh và điều luật như Cáo trạng đã nêu. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Khoản 1 Điều 321; Điểm s (thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải) đối với các bị cáo; Điểm i Khoản 1 Điều 51 (phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng) đối với bị cáo Thủy và Quyết, Khoản 2 Điều 51(gia đình có công với nước) đối với bị cáo Quang, Quyết, Tặng, Hải; Điều 65 BLHS đối với các bị cáo.

Áp dụng Điều 47 BLHS; Điều 106, 136 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30.12.2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Đề nghị xử phạt: - Bị cáo Nguyễn Thanh Q mức án từ 12 đến 15 tháng tù cho hưởng án treo, thử thách từ 24 đến 30 tháng kể từ ngày tuyên án về tội Đánh bạc.

- Bị cáo Nguyễn Văn H mức án từ 09 đến 12 tháng tù cho hưởng án treo, thử thách từ 18 đến 24 tháng kể từ ngày tuyên án về tội Đánh bạc.

- Bị cáo Lê Văn T mức án từ 09 đến 12 tháng tù cho hưởng án treo, thử thách từ 18 đến 24 tháng kể từ ngày tuyên án về tội Đánh bạc.

- Nguyễn Văn T1, Trần Văn Q1 cùng mức án từ 06 đến 09 tháng tù cho hởng án treo, thử thách từ 12 đến 18 tháng kể từ ngày tuyên án về tội Đánh bạc.

Về vật chứng: Tịch thu sung công quỹ 8.395.000 đồng (tám triệu, ba trăm chín mươi lăm nghìn đồng).

Tịch thu tiêu hủy 01 chiếu cói, 02 bộ bài tỳ lơ khơ.

Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo do các bị cáo làm ruộng, có thu nhập thấp và không ổn định.

Về án phí: Buộc các bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Tại phần nói lời sau cùng các bị cáo đều tỏ ra ăn năn hối cải và xin được hưởng sự khoan hồng của pháp luật để có cơ hội cải tạo ngoài xã hội.

Căn cứ vào tài liệu được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đánh giá toàn bộ chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo và những ngời tham gia tố tụng khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định nh sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng đối với việc khởi tố điều tra, truy tố các bị cáo Nguyễn Thanh Q, Nguyễn Văn H, Lê Văn T, Nguyễn Văn T1 và Trần Văn Q1 của các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án: Việc Cơ quan điều tra Công an huyện Sóc Sơn, Viện kiểm sát nhân dân huyện Sóc Sơn cũng như Điều tra viên, Kiểm sát viên tiến hành tố tụng trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử là hoàn toàn đúng quy định pháp luật về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định tại Bộ luật Tố tụng hình sự, ngoài ra cũng không có khiếu nại tố cáo trong qúa trình tố tụng. Do vậy, các hành vi cũng như quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng đều hợp pháp.

Như vậy có đủ cơ sở xác định: Vào hồi 16h00’ ngày 28/12/2020, tại nhà Nguyễn Thanh Q ở thôn T, xã P, huyện Sóc Sơn, Hà Nội, Nguyễn Thanh Q, Nguyễn Văn H, Lê Văn T, Nguyễn Văn T1, Trần Văn Q1 đã có hành vi Đánh bạc sát phạt nhau bằng tiền dưới hình thức “Đánh sâm” với tổng số tiền sử dụng vào việc Đánh bạc là 8.395.000 đồng (tám triệu, ba trăm chín mươi lăm nghìn đồng).

Hành vi đánh bạc bằng hình thức đánh sâm với tổng số tiền các bị cáo sử dụng vào việc đánh bạc được xác định là 8.395.000đ đã đủ cấu thành tội Đánh bạc theo Khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự. Điều khoản này quy định hình phạt tiền từ 20.000.000đ đến 100.000.000đ, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm. Ngoài ra người phạm tội còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền theo Khoản 3 Điều 321 BLHS năm 2015. Viện kiểm sát truy tố các bị cáo với tội danh trên là có căn cứ và phù hợp với quy định pháp luật.

Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, làm ảnh hưởng đến an ninh trật tự công cộng, làm cho tình hình trị an thêm phức tạp. Không những làm hao tổn kinh tế gia đình các bị cáo mà còn là nguyên nhân gây ra các loại tội phạm khác. Các bị cáo nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng do ý thức coi thường pháp luật, tham lam tư lợi ham ăn thua nên đã cố tình phạm tội nên việc đưa các bị cáo ra xét xử là cần thiết và phải áp dụng loại hình phạt tù có thời hạn để cải tạo, giáo dục các bị cáo và góp phần vào phòng ngừa chung đối với loại tội đang diễn ra thường xuyên hiện nay.

Đánh giá tính chất và mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo thấy rằng: Trong vụ án có đồng phạm tuy nhiên chỉ là giản đơn, không phải phạm tội có tổ chức. Nguyễn Thanh Q là chủ nhà đã sử dụng nhà mình tham gia và cho các bị cáo khác đánh bạc nên giữ vai trò cao nhất, tiếp theo xếp theo giá trị số tiền các bị cáo bỏ ra đánh bạc lần lượt là Nguyễn Văn H, Nguyễn Văn T1, Lê Văn T và cuối cùng là Trần Văn Q1.

 [2] Khi quyết định hình phạt Hội đồng xét xử xem xét: Tại phiên toà các bị cáo đều khai bỏo thành khẩn, ăn năn hối cải, đây là tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s Khoản 1 Điều 51 BLHS, các bị cáo T1, Q1 phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, đây là tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm i Khoản 1 Điều 51 BLHS.

Đối với bị cáo Nguyễn Thanh Q, bị cáo có bố là Nguyễn Xuân L tham gia kháng chiến và được tặng thưởng Huân chương kháng chiến hạng Ba; Bị cáo Lê Văn T cũng có bố mẹ vợ là Nguyễn Văn B, Trần Thị V tham gia kháng chiến chống Mỹ, được tặng thưởng Huy chương kháng chiến hạng Nhì, Huy chương chiến sĩ vẻ vang hạng Ba, bị cáo Nguyễn Văn H có bố vợ là Lê Văn T tham gia kháng chiến và được tặng thưởng Huy chương kháng chiến hạng Nhì, bị cáo Trần Văn Q1 là cháu nội của Liệt sĩ Trần Văn Q nên các bị cáo Q, T, H, Q1 được hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ quy định tại Khoản 2 Điều 51 BLHS. các bị cáo không có tình tiết tăng nặng. Xét về nhân thân các bị cáo thì thấy các bị cáo Nguyễn Thanh Q, Lê Văn T, Nguyễn Văn H đều đã có tiền án: Bị cáo Q, T cùng bị xét xử tại bản án số 85/2007/HSST ngày 28/8/2007, bị cáo Hải bị xét xử tại bản án số 147/2015/HSST ngày 16/9/2015, các bản án đều đã được xóa từ lâu, phạm tội thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, các bị cáo đều thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, số tiền tham gia đánh bạc không lớn, gia đình các bị cáo đều có bố mẹ vợ, ông nội là những người có công với nước. Theo hướng dẫn tại Điều 2 Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15/5/2018 của Hội đồng thẩm phán TANDTC thì các bị cáo trên đều có đủ điều kiện để cho hưởng án treo. Đối với bị cáo Nguyễn Văn T1 và Trần Văn Q1, bản thân chưa có tiền án tiền sự. Trong vụ án này các bị cáo T1, Q1 được xác định là phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, số tiền tham gia đánh bạc không lớn. Tất cả các bị cáo nói trên đều có nhiều tình tiết giảm nhẹ, có nơi cư trú cụ thể rõ ràng và đều thành khẩn khai báo, nhận thức rõ về hành vi vi phạm của mình, biết ăn năn hối cải, có khả năng tự cải tạo nên xét thấy xử các bị cáo với hình phạt tù nhưng cho các bị cáo hưởng án treo dưới sự giám sát giáo dục của chính quyền địa phương cũng đủ tác dụng giáo dục cải tạo các bị cáo thành người công dân có ích cho xã hội, thể hiện sự khoan hồng, nhân đạo của pháp luật.

[3] Về hình phạt bổ sung: Tại Khoản 3 Điều 321 BLHS 2015 có quy định hình phạt bổ sung là phạt tiền. Theo kết quả điều tra xác minh của Cơ quan điều tra- Công an huyện Sóc Sơn thì các bị cáo chỉ có nghề làm ruộng, có thu nhập thấp và không ổn định cũng như không có tài sản riêng nên xét thấy không cần thiết áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.

[4] Về vật chứng: Quá trình điều tra, Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện Sóc Sơn thu giữ tang vật gồm: 01 chiếu cói; 02 bộ bài tú lơ khơ; số tiền 8.395.000 đồng. Xét 01 chiếu cói và 02 bộ bài tú lơ khơ là công cụ các bị cáo dùng đánh bạc, không còn giá trị nên cho tịch thu tiêu huỷ.

Đối với số tiền được xác định vào việc đánh bạc và bị thu giữ là 8.395.000đ, đây là tiền các bị cáo đánh bạc vì vậy cần tịch thu sung công quỹ Nhà nớc.

[5] Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật. Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự năm 2015; Điểm s Khoản 1 Điều 51 đối với các bị cáo; điểm i Khoản 1 Điều 51 đối với Nguyễn Văn T1, Trần Văn Q1; áp dụng thêm Khoản 2 Điều 51 BLHS đối với Nguyễn Thanh Q, Lê Văn T, Nguyễn Văn H và Trần Văn Q1; Điều 65 BLHS đối với các bị cáo.

Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Thanh Q, Nguyễn Văn H, Lê Văn T, Nguyễn Văn T1, Trần Văn Q1 phạm tội: Đánh bạc.

- Xử phạt: Nguyễn Thanh Q 12 (mười hai) tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 24 tháng kể từ ngày tuyên án về tội Đánh bạc.

- Xử phạt: Nguyễn Văn H 10 (mười) tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 20 tháng kể từ ngày tuyên án về tội Đánh bạc.

- Xử phạt: Lê Văn T 08 (tám) tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 16 tháng kể từ ngày tuyên án về tội Đánh bạc.

- Xử phạt: Nguyễn Văn T1 07 (bảy) tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 14 tháng kể từ ngày tuyên án về tội Đánh bạc.

- Xử phạt: Trần Văn Q1 06 (sáu) tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 12 tháng kể từ ngày tuyên án về tội Đánh bạc.

Giao các bị cáo Nguyễn Thanh Q, Nguyễn Văn H, Lê Văn T, Nguyễn Văn T1 và Trần Văn Q1 cho UBND xã Bắc Phú huyện Sóc Sơn TP Hà Nội giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.

Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định của pháp luật về thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Toà án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

- Áp dụng Điều 47 BLHS 2015; Điều 106, 136; Điều 331, 333, 336, 337 Bộ luật tố tụng hình sự 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30.12.2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tịch thu tiêu hủy 01 chiếu cói, 02 bộ bài tỳ lơ khơ. (Tình trạng vật chứng như biên bản bản giao giữa Công an huyện Sóc Sơn và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Sóc Sơn).

Tịch thu sung công quỹ Nhà nước đối với số tiền 8.395.000đ. Mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Án xử công khai, sơ thẩm. Các bị cáo có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân TP Hà Nội trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

352
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 50/2021/HSST ngày 21/05/2021 về tội đánh bạc

Số hiệu:50/2021/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Sóc Sơn - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/05/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về