Bản án 50/2020/HS-ST ngày 12/05/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ U, TỈNH QUẢNG NINH

BẢN ÁN 50/2020/HS-ST NGÀY 12/05/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 12 tháng 05 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố U tỉnh Quảng Ninh, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 29/2020/TLST-HS ngày 11 tháng 03 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 32/2020/QĐXXST-HS ngày 16 tháng 04 năm 2020 đối với bị cáo:

Nguyễn Ngọc H (tên khác: Cường); sinh ngày: 11/7/1983 tại huyện T, tỉnh H; nơi cư trú: Tổ 8, khu 2, phường T, thành phố U, tỉnh Quảng Ninh; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ văn hoá: lớp 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn Đ sinh năm 1940 và bà Phạm Thị Đ sinh năm 1943; vợ, con: chưa có; tiền án, tiền sự: không; bị bắt ngày 15/12/2019 hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố U, tỉnh Quảng Ninh; có mặt.

Nhng người làm chứng:

1) Anh Nguyễn Văn D; sinh năm: 1976; địa chỉ: tổ 8, khu 2, phường T, thành phố U, tỉnh Quảng Ninh; vắng mặt.

2) Chị Nguyễn Thị Q; sinh năm: 2001; địa chỉ: khu 1, phường Đ, thị xã Đ, tỉnh Quảng Ninh; vắng mặt.

Ngưi chứng kiến: Ông Đinh Quang T, sinh năm: 1960; địa chỉ: tổ 1, khu C, phường N, thành phố U, tỉnh Quảng Ninh; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 16 giờ 30 phút, ngày 15/12/2019, tổ công tác Công an phường N, thành phố U làm nhiệm vụ tại đoạn đường nội thị thuộc tổ 6, khu T, phường N phát hiện, bắt quả tang Nguyễn Ngọc H có hành vi cất giấu trái phép chất nghi là ma túy “đá”. Thu giữ 01 túi nilon màu trắng kích thước (2x2) cm chứa chất tinh thể màu trắng. Ngoài ra còn thu giữ của H số tiền 643.000 đồng; 01 điện thoại di động Samsung A30, màu đen, cùng sim liên lạc; 01 xe mô BKS: 14H2-2385. (Bút lục số 37-38) Tại bản kết luận giám định số 992/GĐMT ngày 21/12/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Quảng Ninh kết luận: mẫu vật gửi giám định là ma túy; Loại: Methamphetamine; Khối lượng là 0,295 gam (không phẩy hai chín năm gam). (Bút lục số 24) Quá trình điều tra, Nguyễn Ngọc H khai nhận: Khoảng 16 giờ 10 phút ngày 15/12/2019, do có nhu cầu sử dụng ma túy “đá” nên H gọi điện cho một người phụ nữ không rõ tên, tuổi, địa chỉ là người hay bán ma túy cho H để hỏi mua 200.000 đồng ma túy. Người này hẹn H đến nhà văn hóa T, phường N để nhận ma túy. H điều khiển xe mô tô BKS: 14H2-2385 đến đầu ngõ cạnh nhà văn hóa T thì gặp và chở người này vào trong ngõ, trên đường đi H đưa cho người phụ nữ này 200.000 đồng. Đi được khoảng 180m thì người phụ nữ này xuống xe đồng thời chỉ tay về phía một hòn đá ngay cạnh lề đường sau đó bỏ đi, còn H lật hòn đá thì thấy 01 túi nilon màu trắng kích thước (8x5)cm bên trong có 01 túi nilon màu trắng kích thước (2x2)cm. Biết là gói chứa ma túy H dùng tay trái cầm túi nilon và điều khiển xe mô tô đi về, đi được khoảng 200 mét thì bị bắt quả tang. (Bút lục số 42-55).

Những người làm chứng Nguyễn Văn D, Nguyễn Thị Q và người chứng kiến Đinh Quang T vắng mặt tại phiên tòa xong lời khai trong quá trình điều tra được chứng kiến cơ quan công an bắt giữ bị cáo, thu giữ vật chứng như đã nêu trên phù hợp với lời khai của bị cáo.

Tại bản Cáo trạng số 33/CT-VKSUB ngày 10 tháng 03 năm 2020, Viện kiểm sát nhân dân thành phố U, tỉnh Quảng Ninh đã truy tố bị can Nguyễn Ngọc H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự. Tại phiên tòa Đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Áp dụng: Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự, đề nghị xử phạt bị cáo: Nguyễn Ngọc H từ 12 đến 15 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ 15/12/2019.

- Áp dụng: Điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; khoản 1; điểm a khoản 2, điểm a khoản 3 điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự đề nghị:

+ Tịch thu, tiêu hủy 01 phong bì niêm phong hoàn lại sau giám định số 992/GĐMT của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ninh và 01 sim số 0385.474.215 + Tịch thu nộp ngân sách nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung A30 vỏ màu đen.

+ Trả lại bị cáo Nguyễn Ngọc H số tiền 643.000đ (sáu trăm bốn mươi ba nghìn đồng). Tại phiên tòa bị cáo thừa nhận tội, không tranh luận với đại diện Viện kiểm sát. Bị cáo thừa nhận: Việc truy tố và đưa bị cáo ra xét xử là đúng người đúng tội, không oan, đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tài liệu, chứng cứ đã thu thập, hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố U, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố U, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố: đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về tài liệu, chứng cứ đã thu thập, hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các tài liệu, chứng cứ đã thu thập, hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về việc xác định tội đối với bị cáo:

[2.1] Lời khai của bị cáo Nguyễn Ngọc H tại phiên tòa hoàn toàn phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của những người làm chứng, người chứng kiến và biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng thu giữ của bị cáo, kết luận giám định và các tài tiệu có trong hồ sơ nên Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 16 giờ 30 phút ngày 15/12/2019, tại tổ 6, khu T, phường N, thành phố U, tỉnh Quảng Ninh Nguyễn Ngọc H là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự đã cố tình tàng trữ 0,295 gam chất ma túy loại methamphetamine thì bị công an TP U bắt quả tang.

[2.2] Hành vi của của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội đã xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý của nhà nước về chất ma tuý. Hành vi của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

[2.3] Viện kiểm sát nhân dân thành phố U truy tố bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[2.4] Về nguyên nhân, động cơ, mục đích phạm tội: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội đã xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý của nhà nước về chất ma tuý. Bị cáo là người trưởng thành, có nhận thức về tác hại của ma túy đối với sức khỏe con người, biết được sự ngăn cấm của pháp luật nhưng do ý thức chấp hành pháp luật kém chỉ vì muốn thỏa mãn nhu cầu bản thân mà bị cáo cố ý tàng trữ trái phép chất ma túy. Hành vi của bị cáo không những gây mất an ninh trật tự tại địa phương mà còn tiếp tay cho những kẻ mua bán trái phép chất ma túy vì vậy cần có một hình phạt nghiêm đối với bị cáo, cách ly bị cáo khỏi đời sống xã hội một thời gian để giáo dục bị cáo và tăng cường biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm nói chung trong xã hội.

[3] Về hình phạt đối với bị cáo: bị cáo phải chịu hình phạt về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

[3.1] Xét về nhân thân bị cáo thấy bị cáo có nhân thân thân tốt, phạm tội lần

[3.2] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[3.3] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của bị cáo do đó bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Cha và mẹ của bị cáo là người có công với đất nước được nhà nước tặng thưởng huân, huy chương kháng chiến, gia đình bị cáo có hoàn cảnh khó khăn nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

[3.4] Hình phạt Bổ sung: xét thấy bị cáo Nguyễn Ngọc H hiện nay không có việc làm, không có thu nhập, đang bị tạm giam nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[4] Về xử lý vật chứng:

+ Số ma túy hoàn lại sau giám định là vật cấm lưu hành cần tịch thu tiêu hủy.

+ 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung A30 vỏ màu đen liên quan đến việc phạm tội nên cần tịch thu nộp ngân sách nhà nước; 01 sim số: 0385.474.215 cần tịch thu tiêu hủy.

+ Số tiền 643.000đ (sáu trăm bốn mươi ba nghìn đồng) thu giữ của bị cáo Nguyễn Ngọc H là tài sản hợp pháp của bị cáo không liên quan đến việc phạm tội nên trả lại bị cáo.

[5] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[6] Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án này theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào: Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự:

Tuyên bố: bị cáo Nguyễn Ngọc H phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt: Nguyễn Ngọc H 15 (mười lăm) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị tạm giữ (ngày 15/12/2019).

2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng: điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự;

khoản 1, Điểm a khoản 2, điểm a khoản 3 điều 106 bộ luật tố tụng hình sự đề nghị:

+ Tịch thu, tiêu hủy số ma túy trong phong bì niêm phong hoàn lại sau giám định số 992/GĐMT của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ninh và 01 sim số 0385.474.215.

+ Tịch thu nộp ngân sách nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung A30 vỏ màu đen.

+ Trả lại bị cáo Nguyễn Ngọc H số tiền 643.000đ (sáu trăm bốn mươi ba nghìn đồng).

Tình trạng những vật chứng nêu trên theo Biên bản giao vật chứng ngày 03/4/2020 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố U và Chi cục thi hành án dân sự thành phố U, tỉnh Quảng Ninh.

3. Căn cứ vào: khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội. Buộc bị cáo Nguyễn Ngọc H phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

4. Căn cứ vào: khoản 1 Điều 331, khoản 1 Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự bị cáo có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn mười lăm ngày kể từ ngày tuyên án./

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

168
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 50/2020/HS-ST ngày 12/05/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:50/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Uông Bí - Quảng Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 12/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về