Bản án 50/2020/HSST ngày 06/05/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ CẨM PHẢ, TỈNH QUẢNG NINH

BẢN ÁN 50/2020/HSST NGÀY 06/05/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 06 tháng 05 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 17/2020/TLST- HS ngày 12 tháng 02 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 31/2020/QĐXXST-HS ngày 10 tháng 03 năm 2020; Quyết định hoãn phiên toà số 13/2020/HSST- QĐ ngày 08/4/2020 đối với bị cáo:

Họ và tên: Bùi Thị H - Tên gọi khác: Không  - Giới tính: Nữ:

Sinh ngày: 05/8/1984, tại huyện Bảo Thắng, tỉnh Lào Cai:

Đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn P 3, thị trấn Ph, huyện Bảo Thắng, tỉnh Lào Cai.

Chỗ ở hiện nay: Tổ 2, khu T 5, phường C, thành phố C, tỉnh Quảng Ninh; (theo đơn bảo lãnh của bà Đinh Thị T – sinh năm 1962; ĐKHKTT: Số nhà 13, tổ 2, khu T 5, phường C, thành phố Cẩm Phả):

Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: Lớp 08/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Họ và tên bố: Bùi Đình L; Họ và tên mẹ: Trần Thị L; Chồng: Nguyễn Mạnh Th (đã ly hôn); Có 02 con, con lớn sinh năm 2006, con nhỏ sinh năm 2016:

Tiền án, tiền sự : không:

Bị cáo bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 26/10/2019.

Vắng mặt tại phiên toà (có đơn xử án vắng mặt).

* Người làm chứng:

1. Anh Lê Đức M - sinh năm 1977; địa chỉ: Tổ 4, khu T 8, phường C, thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh.

2. Anh Doãn Đức H - sinh năm 1985; địa chỉ: tổ 2, khu T 5, phường C, thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh.

3. Anh Phạm Hữu Th - sinh năm 1984; địa chỉ: Tổ 4, khu 6C, phường C, thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh.

4. Chị Nguyễn Thị Cẩm T - sinh năm 1988; địa chỉ: Tổ 5, khu Đ, phường Cẩm Thuỷ, thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh.

(Đều vắng mặt tại phiên Tòa).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 23 giờ 35 phút ngày 17/10/2019, tổ công tác thuộc Công an thành phố Cẩm Phả kiểm tra hành chính tại nhà trọ của Bùi Thị H thuê của bà Nguyễn Thị Thúy Hường tại số nhà 41 thuộc Tổ 4, khu Tân Lập 8, phường Cẩm Thủy, thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh, phát hiện có 04 đối tượng gồm Lê Đức M; Doãn Đức H, Phạm Hữu Th, Nguyễn Thị Cẩm T đang ngồi chơi tại phòng trọ. Vật chứng thu giữ của Bùi Thị H: Thu giữ dưới nền nhà, vị trí sát tủ đựng quần áo cạnh tường sát cửa ra bể nước phía sau nhà 01 hộp kim loại bên ngoài có chữ DouBlemint bên trong có 01 Ti nilon kích thước (2x2,5)cm bên trong chứa chất tinh thể màu trắng; Thu trên nóc bể phía sau nhà 01 nỏ thủy tinh bị vỡ một đầu được gói trong giấy vệ sinh; Thu trên nền nhà 01 điện thoại di động nhãn hiệu Itel màu xanh lắp sim số 0373.145.052.

Cơ quan điều tra đã tiến hành thu giữ và niêm phong mẫu nước tiểu của Bùi Thị H, Lê Đức M, Doãn Đức H, Phạm Hữu Th, Nguyễn Thị Cẩm T để giám định.

Tại Kết luận giám định số 803/GĐMT ngày 22/10/2019 của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ninh kết luận: 01 Ti nilon chứa chất tinh thể màu trắng thu giữ của Bùi Thị H giám định là ma Ty, loại Methamphetamine, khối lượng là: 0,326 gam (Không phẩy ba trăm hai mươi sáu gam); Mẫu nước tiểu thu giữ của Bùi Thị H, Lê Đức M, Doãn Đức H, Phạm Hữu Th, Nguyễn Thị Cẩm T giám định có ma Ty, loại Methamphetamine. Hoàn lại Cơ quan CSĐT Công an thành phố Cẩm Phả mẫu vật trong niêm phong số 803/GĐMT: 0,26 gam (Bút lục số 17).

Quá trình điều tra, bị cáo Bùi Thị H khai nhận: Hà sử dụng ma Ty đá từ năm 2018 đến nay. Khoảng 17 giờ ngày 14/10/2019, Hà đang ở phòng trọ có một người đàn ông không biết tên (Hà chỉ biết là bạn của Tuấn Rừng) đến chơi và anh ta đã lấy 01 Ti ma Ty đá được đựng trong 01 hộp kim loại màu xanh có chữ DouBlemint, rồi xúc một ít ma Ty để sử dụng cùng Hà. Sau đó, người đàn ông có việc đi về và cho Hà số ma Ty đá còn lại đựng trong Ti linon. Hà cầm số ma Ty đá đó cho vào chiếc hộp kim loại màu xanh có chữ DouBlemint rồi cất vào chân tường sau vali quần áo mục đích để sử dụng. Đến khoảng 16 giờ 30 phút ngày 17/10/2019, Nguyễn Thị Cẩm T có đến phòng trọ của Hà chơi và cầm theo 01 Ti ma Ty đá thì Hà, T, Hiệp đã cùng nhau sử dụng hết. Đến hơn 21 giờ cùng ngày, thì T, Minh, Hiệp, Hà, Thành đang ngồi nói chuyện với nhau tại phòng trọ của Hà thì Công an vào kiểm tra phát hiện và thu giữ vật chứng như trên. Ngoài ra, Hà khai nhận nguồn gốc số ma Ty bị Công an thu giữ là do một người bạn Hà quen ngoài xã hội qua anh Tuấn Rừng cho. Hà không biết cụ thể tên tuổi địa chỉ của người đàn ông đó, Hà có sử dụng ma Ty cùng người đàn ông đó hai lần. Việc Hà cất giấu số ma Ty trên trong nhà trọ thì Lê Đức M, Doãn Đức H, Phạm Hữu Th, Nguyễn Thị Cẩm T đều không biết. Trước đó, Hà đã nhiều lần sử dụng ma Ty đá cùng với Minh, Hiệp, Thành, T, Tuấn Rừng tại phòng trọ của Hà. (Bút lục số 85 – 104).

Tại phiên toà bị cáo Bùi Thị H vắng mặt, trong đơn xin xử án vắng bị cáo trình bày: bị cáo đã nhận quyết định đưa vụ án ra xét xử cũng như quyết định hoãn phiên toà của Toà án, nhưng hiện nay bị cáo đang mang thai và thời gian dự sinh vào ngày Toà án mở phiên toà, vì vậy bị cáo không đến phiên toà được, bị cáo xin được xử án vắng mặt. Trong quá trình điều tra bị cáo đã khai báo trung thực về hành vi của mình, bị cáo ăn năn hối hận về hành vi phạm tội của mình, đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Người làm chứng trong vụ án là Lê Đức M, Doãn Đức H, Phạm Hữu Th, Nguyễn Thị Cẩm T là người đã có mặt khi Công an kiểm tra hành chính nơi Bùi Thị H ở trọ vào ngày 14/10/2019, trong quá trình điều tra đều có lời khai thể hiện nội dung : Lê Đức M, Doãn Đức H, Phạm Hữu Th, Nguyễn Thị Cẩm T đều là bạn của Hà. Khoảng 16 giờ 30 phút ngày 17/10/2019, T có đến phòng trọ của Hà chơi và cầm theo 01 Ti ma Ty đá, khi đó tại phòng trọ của Hà còn có Hiệp và Minh, nhưng chỉ có Hà và Hiệp cùng T sử dụng ma tuý của T mang đến, sau đó có Thành đến chơi, đến khoảng 21 giờ cùng ngày thì Công an vào kiểm tra phát hiện và thu giữ vật chứng tại phòng trọ của bị cáo như cáo trạng mô tả. Lê Đức M, Doãn Đức H, Phạm Hữu Th, Nguyễn Thị Cẩm T còn khai Minh, Hiệp, Thành, T là người nghiện ma tuý và loại ma tuý thường sử dụng là ma tuý đá. (BL 34-35:

47-48; 55-56; 65-66).

Tài liệu có trong hồ sơ vụ án: Biên bản kiểm tra hành chính và thu giữ vật chứng ngày 17/10/2019 (BL: 20), Biên bản niêm phong đồ vật tài liệu bị tạm giữ (Bl: 21 ; 24 ; 25); Bản ảnh vật chứng (BL: 23); các tài liệu này đều có nội dung phù hợp lời khai của bị cáo, lời khai của người làm chứng Lê Đức M, Doãn Đức H, Phạm Hữu Th, Nguyễn Thị Cẩm T .

Tại bản cáo trạng số 19/CT- VKSCP ngày 10/02/2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cẩm Phả truy tố Bùi Thị H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa kiểm sát viên trình bày luận tội bị cáo với đề nghị kết tội bị cáo như nội dung bản cáo trạng đã truy tố và đề nghị: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s, điểm n khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Bùi Thị H từ 12 đến 15 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị bắt đi thi hành án. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo; ngoài ra có quan điểm xử lý vật chứng theo quy định.

Bị cáo vắng mặt tại phiên toà, không tiến hành việc tranh luận.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Cẩm Phả, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cẩm Phả, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố, xét xử bị cáo không có ý kiến, khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Hồi đồng xét xử xét thấy, trong quá trình điều tra bị cáo Bùi Thị H khai nhận hành vi phạm tội, lời khai nhận tội của bị cáo thống nhất và phù hợp với tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án:Kết luận giám định ma tuý, lời khai của những người làm chứng trong vụ án.

Trên cơ sở các chứng cứ này, cùng các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử đủ cơ sở kết luận: Ngày 17/10/2019 tại số nhà 41 thuộc tổ 4, khu Tân Lập 8, phường Cẩm Thủy, thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh, Bùi Thị H có hành vi tàng trữ trái phép 0,326gam (không phảy ba trăm hai mươi sáu gam) ma Ty Methamphetamine, mục đích để sử dụng thì bị Công an kiểm tra và thu giữ.

Hành vi này của bị cáo Bùi Thị H đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” thuộc trường hợp quy định tại điểm tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Tội danh có khung hình phạt từ 1 năm đến 5 năm tù. Cáo trạng truy tố bị cáo là đúng người, đúng tội.

[3] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý các chất ma tuý của Nhà nước. Ma Ty là chất gây nghiện làm cho người sử dụng phải lệ thuộc vào nó, ma Ty làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe, kinh tế của người sử dụng và là nguồn phát sinh tội phạm nguy hiểm khác cho xã hội. Pháp luật Nhà nước ta xử lý nghiêm khắc đối với các tội phạm này, mục đích để ngăn chặn, đẩy lùi tệ nạn ma Ty trong xã hội. Bị cáo là người đã trưởng thành có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, hiểu được tác hại của ma tuý đối với người sử dụng cũng như đối với xã hội và sự nghiêm cấm của pháp luật, nhưng vì lối sống buông thả, coi thường pháp luật, bị cáo vẫn cố tình tàng trữ ma tuý để sử dụng. Với tính chất nguy hiểm của hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện, cần thiết phải xử lý cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian nhất định mới đủ tác dụng giáo dục bị cáo nói riêng và phòng ngừa tội phạm nói chung.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Hội đồng xét xử xét thấy bị cáo Bùi Thị H trong quá trình điều tra thành khẩn khai báo, trong đơn xin xử án vắng mặt bị cáo trình bày đã ăn năn hối hận về hành vi phạm tội của mình, mặt khác khi phạm tội bị cáo là người đang có thai nên Hội đồng xét xử áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định điểm s, điểm n khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự cho bị cáo, để bị cáo thấy sự khoan hồng của pháp luật, để bị cáo yên tâm cải tạo thành công dân có ích cho xã hội. Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng nào.

[5] Về vật chứng: Số mẫu vật hoàn lại sau giám định trong phong bì niêm phong số 803/GĐMT của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ninh, xác định là vật nhà nước cấm lưu hành, nên tịch thu tiêu huỷ; 01 hộp kim loại bên ngoài có chữ DouBlemint, 01 gói giấy vệ sinh màu trắng bên trong có 01 nỏ thủy tinh bị vỡ một đầu, đều xác định là vật không có giá trị sử dụng, nên tịch thu tiêu huỷ; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Itel màu xanh, model A1699 kèm 01 pin, 01 sim, đã qua sử dụng, xác định không liên quan đến hành vi phạm tội, nên trả cho bị cáo.

[6] Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo không có nghề nghiệp, không có thu nhập ổn định, nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo. [7] Án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

[8] Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

[9] Đối với Lê Đức M, Doãn Đức H, Phạm Hữu Th, Nguyễn Thị Cẩm T có hành vi sử dụng trái phép chất ma Ty. Công an thành phố Cẩm Phả đã ra quyết định xử phạt hành chính.

Bà Nguyễn Thị Thúy Hường cho Bùi Thị H thuê phòng trọ nhưng không biết việc Hà sử dụng trái phép chất ma Ty, nên hành vi không cấu thành tội phạm.

Đối với Nguyễn Thị Cẩm T có hành vi mang ma Ty đến phòng trọ của Hà và Hà đã cho các đối tượng sử dụng ma Ty tại phòng trọ của mình. Tuy nhiên T, Hà, Doãn Đức H, Phạm Hữu Th, Lê Đức M cũng là những đối tượng nghiện và đều cùng sử dụng ma Ty với nhau, nên hành vi của Hà và T không đủ căn cứ để cấu thành tội “Chứa chấp sử dụng trái phép chất ma Ty” và tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma Ty”.

Đối với người tên là Tuấn Rừng, tiến hành xác minh tại Công an phường Cẩm Thủy xác định là Nguyễn Minh Tuấn, sinh năm 1984, trú tại: Tổ 2, khu Đập Nước 1, phường Cẩm Thủy, thành phố Cẩm Phả. Cơ quan điều tra đã nhiều lần triệu tập nhưng Tuấn không có mặt tại địa phương nên tiếp tục xác minh làm rõ xử lý sau.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ: Điểm c Khoản 1 Điều 249; điểm s, n khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Tuyên bố: Bị cáo Bùi Thị H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

Xử phạt bị cáo Bùi Thị H 12 (mười hai) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt đi thi hành án.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a, c khoản 2; điểm b khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Tịch thu tiêu huỷ: Số mẫu vật hoàn lại sau giám định trong phong bì niêm phong số 803/GĐMT của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ninh; 01 hộp kim loại bên ngoài có chữ DouBlemint; 01 gói giấy vệ sinh màu trắng bên trong có 01 nỏ thủy tinh bị vỡ một đầu; Trả lại bị cáo 01 điện thoại di động nhãn hiệu Intel màu xanh, model A1699 kèm 01 pin, 01 sim, đã qua sử dụng.

(Hiện trạng toàn bộ vật chứng theo Biên bản giao nhận vật chứng số 91/BB-THA ngày 18/03/2020 của cơ quan Thi hành án dân sự thành phố Cẩm Phả).

Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; buộc bị cáo Bùi Thị H phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Án xử sơ thẩm công khai, vắng mặt bị cáo; Căn cứ Điều 331, khoản 1 Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự, báo cho bị cáo biết có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày bị cáo nhận được bản án, hoặc ngày niêm yết bản án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

170
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 50/2020/HSST ngày 06/05/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:50/2020/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Cẩm Phả - Quảng Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 06/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về