Bản án 50/2020/HS-PT ngày 21/07/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH VĨNH PHÚC

BẢN ÁN 50/2020/HS-PT NGÀY 21/07/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 21 tháng 7 năm 2020, tại Trụ sở Tòa nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 139/2019/TLPT-HS ngày 02 tháng 12 năm 2019 đối với bị cáo Phạm Hồng H do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 85/2019/HS-ST ngày 24 tháng 10 năm 2019 của Tòa án nhân dân thành phố P.

Bị cáo có kháng cáo:

Họ và tên: Phạm Hồng H (tên gọi khác: không), sinh năm 1992; nơi ĐKHKTT: Số nhà 11, ngõ 92, tổ 2, phường B, quận L, thành phố Hà Nội; nơi ở hiện tại: Số 59, ngõ 265, đường N, huyện T, thành phố Hà Nội; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: Lớp 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: N3; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt N3; con ông Phạm Hồng T1, sinh năm 1959 và con bà Đinh Thị Thanh N1, sinh năm 1963; có vợ: Nguyễn Thị Bích P1, sinh năm 1992 và có 01 con, sinh năm 2016; tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo tại ngoại (có mặt).

Ngoài ra trong vụ án còn có người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có kháng cáo, kháng nghị Tòa án không triệu tập.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Do đã thống nhất với nhau về việc đi du lịch từ trước, khoảng 11 giờ 30 phút ngày 16/4/2019, Đào Đăng D1 điều khiển xe ô tô BKS: 30F-314.76 chở 03 người gồm: Phạm Hồng H, chị Đinh Minh T4 và chị Nguyễn Thị Thanh T2; còn Phạm Lê N3 điều khiển xe ô tô BKS: 98A-157.45 chở 03 người gồm: Đặng Trần A1, chị Nguyễn Ngọc Quế A1, Đào Thị H4 từ Hà Nội đến khu du lịch Flamingo Đại Lải thuộc xã Ngọc Thanh, thành phố P, tỉnh Vĩnh Phúc. Khi đến nơi, Phạm Hồng H làm thủ tục check in đăng ký lưu trú cho cả nhóm vào ở tại biệt thự B113 và A6 do H đã đặt thuê từ trước với mục đích để tổ chức lễ cầu hôn cho anh N3 với H4 và tổ chức sinh nhật cho Nguyễn Thị Thanh T2. Tiếp theo đó, Đặng Trần Hùng điều khiển xe ô tô BKS: 30F-060.95 chở Thân Thị Bích Huệ đến; Nguyễn Thành L1 điều khiển xe ô tô BKS: 12A-045.80 chở Mai Thị H3 đến ở cùng với nhóm của H.

Sau khi tổ chức lễ cầu hôn cho anh N3 với H4 xong, khoảng 20 giờ 30 phút ngày 16/4/2019 cả nhóm đi về căn biệt thự B113 để tổ chức sinh nhật cho T2. Cả nhóm tiếp tục ăn uống, nghe nhạc và sử dụng khí bóng cười do D1 và H mang đến. Đến khoảng 23 giờ 00 cùng ngày tại phòng ngủ tầng 2, do đã chuẩn bị sẵn từ trước, Phạm Hồng H lấy từ túi quần ra 01 túi nilon chứa 04 viên ma túy dạng kẹo, bẻ lấy 01 mẩu sử dụng, rồi để túi ma túy trên mặt kệ bàn. Đặng Trần A1 tự bỏ ra 01 túi vải bên trong chứa 05 túi nilon chứa ma túy dạng ke để trên mặt kệ bàn mục đích để sử dụng cho bản thân. Nhìn thấy có ma túy, L1 tự lấy túi ma túy dạng ke của A1 đổ vào đĩa sứ có sẵn ở trong phòng để đảo (xào ke) rồi sử dụng. Thấy H, A1 và L1 sử dụng ma túy thì D1, H3, T2 và H4 tự đến lấy ma túy tổng hợp dạng kẹo và ma túy dạng ke sử dụng, rồi nghe nhạc, nhảy múa khoảng 02 giờ 30 phút ngày 17/4/2019 thì bị Công an thành phố P phát hiện bắt quả tang.

Vật chứng thu giữ bao gồm:

- 01 túi vải màu xám để trên đĩa hoa quả đặt tại mặt bàn gỗ phía trong góc phòng ngủ, bên trong túi vải có 01 túi nilon, bên trong túi nilon có chứa 04 túi nilon viền xanh, trong mỗi túi đều chứa các tinh thể dạng đá, được niêm phong trong phong bì ký hiệu A1;

- 01 viên nén màu xám, trên mặt viên nén in nổi chữ: “DURACELL- MDMA POWER‟‟ và 01 mảnh viên nén màu xám, được niêm phong trong phong bì ký hiệu A2.

- Thu giữ trên kệ gỗ để ti vi trong phòng ngủ 01 đĩa sứ, trên mặt đĩa có các tinh thể dạng đá được thu gom vào 01 túi nilon và niêm phong trong phong bì ký hiệu A3 + 01 ống hút màu đen, 01 thẻ cứng màu cam có đề chữ „„HERMES PARIS” + 01 tẩu hút cuốn bằng tờ tiền polyme mệnh giá 10.000đ.

- Thu dưới sàn gần đầu gường ngủ 01 mảnh viên nén màu xám, được niêm phong trong phong bì ký hiệu A4.

- 01 bình nén khí cười màu vàng của D1, 01 bình nén khí cười màu cam của H.

- Thu giữ của Phạm Hồng H 01 chiếc điện thoại di động(ĐTDĐ) nhãn hiệu Nokia 8800 màu đen đã cũ.

- Thu của D1 01 xe ô tô BKS 30F-314.76 + 01 ĐTDĐ nhãn hiệu Iphone 6S màu vàng;

- Thu của H4 01 xe ôtô BKS 98A-157.45 + 01 ĐTDĐ nhãn hiệu Iphone XS Max màu vàng đã cũ;

- Thu của Đặng Trần Hùng 01 xe ô tô BKS 30F-060.95.

- Thu của L1 01 xe ô tô BKS 12A-045.80 + 01 ĐTDĐ nhãn hiệu Iphone 7 Plus màu đen, đã cũ.

- Thu giữ của T2 01 ĐTDĐ nhãn hiệu Iphone 7 Plus màu đen, đã cũ.

- Thu giữ của H3 01 ĐTDĐ nhãn hiệu Iphone 7 Plus màu đỏ, trắng đã cũ + 01 loa xách tay hình chữ nhật màu đen, bạc có đề chữ BRAVEN + 01 loa xách tay hình nửa hình tròn màu đen có đề chữ harman/kardon.

- Thu giữ của chị T4 01 chiếc đèn điện tử có đề chữ LASER SHOWF 1643 hình chữ nhật, màu đen.

Kết quả Test thử ma túy có 07 người dương tính với chất ma túy gồm: Phạm Hồng H, Đặng Trần A1, Nguyễn Thành L1, Đào Đăng D1, Đào Thị H4, Nguyễn Thị Thanh T2 và Mai Thị H3; Còn 05 người âm tính với ma túy gồm: anh Đặng Trần Hùng, anh Phạm Lê N3, chị Đinh Minh T4, chị Nguyễn Ngọc Quế A1 và chị Thân Thị Bích Huệ.

Ngày 17/4/2019, Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Vĩnh Phúc tiến hành cân khối lượng mẫu giám định, kết quả: A1 = 0,2406 gam; A2 = 0,4600 gam; A3 = 0,0528 gam; A4 = 0,0635 gam. Ngày 19/4/2019, Phòng Kỹ thuật hình sự có thông báo từ chối giám định và hoàn trả mẫu vật giám định cho Cơ quan Công an thành phố P.

Ngày 06/5/2019, Viện Khoa học hình sự - Bộ Công an, kết luận: Mẫu tinh thể dạng đá trong phong bì ký hiệu A1 và A3 gửi giám định là ma túy; loại: Ketamine. Mẫu viên nén và các mảnh viên nén màu xám trong niêm phong kí hiệu A2 gửi giám định là ma túy; loại: MDMA. Mẫu các mảnh vụn màu xám trong phong kí hiệu A4 gửi giám định là ma túy; loại: MDMA. Hoàn lại mẫu vật sau giám định, gồm: A1 = 0,150 gam; A2 = 0,345 gam; A3 = 0,020 gam; A4 = 0,025 gam. Như vậy khối lượng ma túy bị cáo Phạm Hồng H tàng trữ là: A2 + A4 = 0,5235g MDMA.

Về nguồn gốc ma túy loại MDMA trong mẫu A2 + A4 = 0,5235g, bị cáo H khai nhận: Do nghiện ma túy nên ngày 09/4/2019, H mua 04 viên ma túy tổng hợp dạng kẹo của một người nam giới không biết tên tuổi, địa chỉ tại gầm cầu L, H Nội với giá 2.000.000đ, tàng trữ để sử dụng. Ngày 16/4/2019 H mang 04 viên ma túy tổng hợp nêu trên đến khu du lịch Flamingo Đại Lải ở xã Ngọc Thanh - P sử dụng thì bị bắt quả tang và thu giữ vật chứng như đã nêu trên. Cơ quan điều tra đã rà soát, xác minh tại khu vực gầm cầu L thuộc phường Phúc Tân, phường Đồng Xuân - Hoàn Kiếm và phường Ngọc Lâm - quận L - H Nội nhưng chưa xác định được đối tượng bán ma túy cho H.

Đối với ma túy loại Ketamine trong mẫu A1 + A3, A1 khai nhận: Ngày 13/4/2019 A1 mua 05 túi nilon chứa ma túy tổng hợp dạng ke của 01 người nam giới không biết tên tuổi, địa chỉ tại khu vực Ngã Tư Sở - H Nội với giá 4.000.000đ, tàng trữ để sử dụng. Ngày 16/4/2019, A1 mang ra sử dụng thì bị bắt quả tang như đã nêu trên. Cơ quan điều tra đã rà soát, xác minh tại khu vực Ngã Tư Sở thuộc Phường Ngã Tư Sở - Đống Đa - H Nội nhưng không xác định được đối tượng bán ma túy cho A1.

Đối với hành vi tàng trữ trái phép 0,2934g Ketamine - Ma túy khác ở thể rắn, của Đặng Trần A1 là vi phạm pháp luật, bản thân A1 là người nghiện ma túy, nhưng chưa có tiền án, tiền sự tội về ma túy nên hành vi không cấu thành tội phạm, cơ quan điều tra đã xử phạt hành chính.

Đối với Đào Đăng D1, Nguyễn Thành L1, Nguyễn Thị Thanh T2, Mai Thị H3, Đào Thị H4 có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy ngày 17/4/2019, nhưng không có tiền án, tiền sự nhóm tội về ma túy, Cơ quan điều tra đã xử phạt hành chính.

Đối với Phạm Hồng H, Đặng Trần A1 có hành vi để D1, L1, T2, H3, H4 sử dụng ma túy của H và A1 tại biệt thự 113 do H đứng ra thuê nhưng cả H, A1, D1, L1, T2, H3, H4 đều là người nghiện ma túy, nên hành vi không cấu thành các tội: Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy; Tội chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy và Tội lôi kéo người khác sử dụng trái phép chất ma túy.

Với nội dung trên, tại Bản án hình sự sơ thẩm số: 85/2019/HS-ST ngày 24 tháng 10 năm 2019 của Tòa án nhân dân thành phố P đã quyết định:

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Xử phạt bị cáo Phạm Hồng H 01 năm 09 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án.

Ngoài ra Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về hình phạt bổ sung, xử lý vật chứng, án phí và tuyên quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 06 tháng 11 năm 2019 bị cáo Phạm Hồng H có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt tù và hình phạt bổ sung. Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo vẫn giữ nguyên nội dung kháng cáo, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm áp dụng điểm a khoản 1 Điều 355 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Phạm Hồng H, giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm của Tòa án nhân dân thành phố P.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về hình thức: Đơn kháng cáo của bị cáo Phạm Hồng H trong thời hạn luật định, hợp lệ được Hội đồng xét xử xem xét.

[2] Về nội dung: Tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa sơ thẩm, phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Phạm Hồng H khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung Bản án sơ thẩm đã tóm tắt nêu trên. Lời khai nhận tội của bị cáo tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa là phù hợp với nhau, phù hợp với lời khai của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, lời khai của người làm chứng; các kết luận giám định của cơ quan chuyên môn cùng các tài liệu, chứng cứ khác được thu thập khách quan đúng pháp luật có trong hồ sơ vụ án. Từ đó có đủ căn cứ để kết luận: Vào khoảng 02 giờ 30 phút ngày 17 tháng 4 năm 2019 tại căn biệt thự B113 khu du lịch Flamingo Đại Lải thuộc xã Ngọc Thanh, thành phố P, tỉnh Vĩnh Phúc, Phạm Hồng H có hành vi tàng trữ trái phép để sử dụng trái phép chất ma túy thì bị Công an thành phố P phát hiện bắt giữ. Theo kết luận giám định của Viện khoa học hình sự - Bộ Công an xác định chất ma túy do Phạm Hồng H tằng trữ trái phép là loại MDMA có khối lượng là 0,5235 gam.

Căn cứ vào lời khai của bị cáo Phạm Hồng H tại phiên tòa và những chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án, thấy rằng Tòa án cấp sơ thẩm xét bị cáo Phạm Hồng H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không oan sai.

Về tính chất của vụ án là tội phạm nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm trực tiếp đến trật tự an toàn công cộng và chính sách quản lý chất ma túy của Nhà nước được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự trị an tại địa phương. Do vậy cần xử lý nghiêm nhằm mục đích giáo dục riêng, phòng ngừa chung, phục vụ tốt nhiệm vụ giữ vững an ninh trật tự tại địa phương và làm gương cho người khác.

[3] Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Phạm Hồng H, Hội đồng xét xử thấy rằng: Khi quyết định hình phạt, Tòa án cấp sơ thẩm đã căn cứ vào tính chất, mức độ thực hiện tội phạm, nhân thân của bị cáo, khối lượng ma túy bị cáo tàng trữ để xử phạt bị cáo Phạm Hồng H 01 năm 09 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, hình phạt trên mức khởi điểm do điều luật quy định là phù hợp quy định của pháp luật, tương xứng với hành vi do bị cáo thực hiện. Xét thấy việc tàng trữ trái phép chất ma túy ngoài việc xâm phạm chế độ quản lý chất ma túy và trật tự an toàn công cộng được pháp luật bảo vệ, làm quần chúng nhân dân lên án và bất bình còn là một trong những nguyên nhân làm phát sinh nhiều loại tội phạm nguy hiểm khác cho xã hội nên cần quyết định hình phạt nghiêm khắc làm gương cho người khác và phòng ngừa chung. Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo nhưng không cung cấp thêm tình tiết giảm nhẹ nào mới để làm căn cứ cho yêu cầu kháng cáo. Do vậy yêu cầu kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt không được Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp nhận.

[4] Xét kháng cáo đối với hình phạt bổ sung của bị cáo Phạm Hồng H, Hội đồng xét xử thấy rằng: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo Phạm Hồng H khai nhận bản thân làm nghề kinh doanh, thu nhập trung bình khoảng 10.000.000đ/01 tháng. Xét thấy bị cáo Phạm Hồng H là người có thu nhập nên việc Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng hình phạt bổ sung phạt bị cáo 10.000.000đ (bằng một tháng thu nhập của bị cáo) để sung quỹ nhà nước là có căn cứ. Do vậy yêu cầu kháng cáo về hình phạt bổ sung của bị cáo không được Hội đồng xét xử chấp nhận.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và hình phạt bổ sung của bị cáo Phạm Hồng H là có căn cứ cần chấp nhận.

Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

[5] Về án phí hình sự phúc thẩm: Yêu cầu kháng cáo không được chấp nhận nên bị cáo Phạm Hồng H phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 355 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

QUYẾT ĐỊNH

Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Phạm Hồng H, giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số: 85/2019/HS-ST ngày 24 tháng 10 năm 2019 của Tòa án nhân dân thành phố P.

Tuyên bố bị cáo Phạm Hồng H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Xử phạt bị cáo Phạm Hồng H 01 (một) năm 09 (chín) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án.

Áp dụng khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015: Phạt bị cáo Phạm Hồng H 10.000.000đ (Mười triệu đồng) sung quỹ Nhà nước.

Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bị cáo Phạm Hồng H phải chịu 200.000đ án phí hình sự phúc thẩm.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

308
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 50/2020/HS-PT ngày 21/07/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:50/2020/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Vĩnh Phúc
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/07/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về