Bản án 50/2019/HS-ST ngày 30/10/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN YÊN LẠC, TỈNH VĨNH PHÚC

BẢN ÁN 50/2019/HS-ST NGÀY 30/10/2019 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 30 tháng 10 năm 2019, tại hội trường Ủy ban nhân dân xã Đại Tự, Tòa án nhân dân huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 48/2019/TLST-HS ngày 02 tháng 10 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 47/2019/QĐXXST-HS ngày 17 tháng 10 năm 2019 đối với bị cáo:

Nguyễn Văn C, sinh ngày 22/10/1980; nơi sinh và cư trú: Thôn Đ3, xã Đ, huyện Y, tỉnh Vĩnh Phúc; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn V, sinh năm 1957 và bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1959; vợ: Nguyễn Thị A, sinh năm 1983 (đã ly hôn): con: Có 01 con sinh năm 2009; tiền sự: Không;

Tiền án: 01 (một), tại bản án số 130/2011/HSST ngày 21/11/2011 Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc phạt 08 năm 06 tháng tù về tội Cướp tài sản, ngày 28/4/2017 chấp hành xong hình phạt;

Bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 07/7/2019 đến nay (có mặt).

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Anh Nguyễn Văn T, sinh năm 1967.

Trú tại: Thôn D, xã Đồng C, huyện Y, tỉnh Vĩnh Phúc (vắng mặt).

Người chứng kiến: Ông Nguyễn Văn B, sinh năm 1974 (vắng mặt).

Trú tại: Thôn D, xã Đồng C, huyện Y, tỉnh Vĩnh Phúc.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 11 giờ 30 phút ngày 07/7/2019, Nguyễn Văn C đang ở nhà thì có Nguyễn Văn T ở thôn D, xã Đồng C, huyện Y điện thoại hỏi mua 300.000 đồng ma túy. C đồng ý và hẹn T đến khu vực đường nội đồng thôn D, xã Đồng C, huyện Y để trao đổi mua bán. Sau đó C đi xe mô tô nhãn hiệu Verona không biển kiểm soát đến khu vực cây xăng Quân đội thuộc xã Hợp Thịnh, huyện Tam Dương, tỉnh Vĩnh Phúc mua của một người đàn ông không rõ tên tuổi địa chỉ 01 gói ma túy Heroine với giá 300.000 đồng. Mua xong C chia nhỏ gói ma túy ra sử dụng một phần, số còn lại cất dấu trong người rồi đến chỗ hẹn bán cho T. Tới nơi gặp T, T đưa cho C 300.000 đồng, C nhận tiền và đưa cho T 01 gói ma túy Heroine thì bị Công an huyện Yên Lạc bắt quả tang.

Vật chứng thu giữ: - Thu tại túi áo ngực của T 01 gói bọc ny lon màu đen bên trong bọc giấy, trong cùng có chứa chất bột dạng cục màu trắng (T khai là ma túy vừa mua của C) vật chứng được niêm phong ký hiệu A1; 01 mảnh giấy ghi số 139, 193 và một điện thoại Nokia màu đen của T.

- Thu tại túi quần đang mặc bên phải phía trước của C 335.000 đồng (trong đó C khai có 300.000 đồng là tiền vừa bán ma túy cho T); thu 01 điện thoại nhãn hiệu Nokia màu xanh, 01 bơm kim tiêm đã qua sử dụng và 01 xe máy nhãn hiệu Venova của C.

Tại kết luận giám định số 1351/KLGĐ ngày 10/7/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Vĩnh Phúc kết luận:

Chất bột, cục màu trắng của mẫu ký hiệu A1 gửi giám định là ma túy, có khối lượng là 0,0296g (Không phảy không hai chín sáu gam, không kể bao bì) loại Heroine. (Heroine là chất ma túy nằm trong danh mục I, STT 9, Nghị định số 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính Phủ”.

Đi với Nguyễn Văn T là người mua ma túy của C để sử dụng cho bản thân, T chưa có tiền án, tiền sự liên quan đến ma túy lần vi phạm này chưa đủ yếu tố cấu thành tội phạm, Công an huyện Yên Lạc xử phạt vi phạm hành chính.

Tại Cáo trạng số 50/CT-VKS ngày 02/10/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Lạc truy tố Nguyễn Văn C về tội “Mua bán trái phép chất ma tuý” theo khoản 1 Điều 251 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Lạc giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo theo tội danh và điều luật như Cáo trạng truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự, đề nghị xử phạt bị cáo từ 02 năm 09 tháng đến 03 năm tù; đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo. Đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu sung quỹ nhà nước 300.000 đồng, tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại sau giám định; 01 mảnh giấy ghi 139, 193; 01 bơm kim tiêm; tịch thu bán sung quỹ nhà nước 02 điện thoại nhãn hiệu Nokia; trả lại cho Nguyễn Văn C 35.000 đồng nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án. Đối với chiếc xe mô tô thu của C chưa làm rõ tạm giữ tại kho vật chứng của Công an huyện xử lý sau.

Tại phiên tòa bị cáo nói lời sau cùng thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Tn cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Yên Lạc, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Lạc, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo, người người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không có người nào có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Khoảng 12 giờ ngày 07/7/2019, tại khu vực đường nội đồng thuộc thôn D, xã Đồng C, huyện Y, tỉnh Vĩnh Phúc, Nguyễn Văn C đang bán trái phép 01 gói ma tuý có khối lượng 0,0296gam cho Nguyễn Văn T với giá 300.000 đồng thì bị bắt quả tang, theo kết luận giám định là ma túy loại Heroine. Hành vi bán trái phép chất ma túy của Nguyễn Văn C đã phạm vào tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 251 Bộ luật Hình sự.

Xét lời nhận tội của bị cáo tại phiên toà phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, phù hợp vật chứng của vụ án, kết luận giám định của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Vĩnh Phúc, phù hợp lời khai của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, người chứng kiến và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, phù hợp với nội dung Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Lạc. Như vậy có đủ cơ sở để kết luận bị cáo Nguyễn Văn C phạm tội: “Mua bán trái phép chất ma túy”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Điều luật quy định: “1. Người nào mua bán trái phép chất ma túy, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm”.

Xét tính chất vụ án là nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, hành vi đó đã trực tiếp xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý các chất ma túy của nhà nước và xâm phạm trật tự, an toàn xã hội ở địa phương. Như chúng ta đã biết ma tuý đã gây tác hại rất lớn và ảnh hưởng rất xấu đến sức khoẻ con người, là nguyên nhân gây ra các tệ nạn xã hội và tội phạm khác. Trong khi cả xã hội đang đấu tranh để đẩy lùi tệ nạn ma túy ra khỏi đời sống thì bị cáo lại làm cho tệ nạn ma túy ngày càng gia tăng. Bị cáo có đầy đủ nhận thức về tác hại của ma túy cho bản thân và xã hội nhưng vẫn thực hiện. Do vậy cần phải có hình phạt thật nghiêm khắc mới tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo.

Xét nhân thân bị cáo là người có sức khoẻ, phát triển bình thường về thể chất và tinh thần nhưng không chịu làm ăn chân chính, ăn chơi đua đòi nên nghiện ma túy. Bị cáo là người có nhân thân xấu bị Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc phạt 08 năm 06 tháng tù về tội “Cướp tài sản” mới chấp hành xong hình phạt chưa được xóa án lại phạm tội. Lẽ ra phải phạt bị cáo mức án cao, song xét thấy ở Cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, thực sự tỏ ra ăn năn hối cải đó là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự bị cáo được hưởng theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Trong vụ án này bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự tái phạm theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự. Vì vậy Hội đồng xét xử chỉ xem xét giảm nhẹ phần nào hình phạt cho bị cáo. Có như vậy mới có tác dụng giáo dục cải tạo bị cáo trở thành người công dân có ích cho gia đình và xã hội.

[3] Về hình phạt bổ sung: “Khoản 5 Điều 251 Bộ luật Hình sự quy định:

Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng…”. Bị cáo là người nghiện ma túy, không có tài sản, nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền.

[4] Về xử lý vật chứng: Số tiền 300.000 đồng là tiền do bán ma túy nên tịch thu sung vào ngân sách nhà nước. Mẫu vật sau giám định 01 bao gói niêm phong “MẪU TRẢ”; 01 bơm kim tiêm, 01 mảnh giấy ghi các con số 139, 193 không còn giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy; 01 điện thoại nhãn hiệu Nokia của Nguyễn Văn C và 01 điện thoại nhãn hiệu Nokia của Nguyễn Văn T dùng vào việc liên lạc mua, bán ma túy nên tịch thu bán phát mại sung vào ngân sách nhà nước. Số tiền 35.000 đồng là tài sản của C không liên quan đến phạm tội nên trả lại cho C nhưng cần tạm giữ để đảm bảo thi hành án. Chiếc xe mô tô C dùng vào việc đi mua và bán ma túy Cơ quan điều tra chưa làm rõ nên giữ tại kho vật chứng của Công an huyện khi nào làm rõ xử lý sau là phù hợp.

Trong vụ án Nguyễn Văn T là người mua ma túy của C để sử dụng cho bản thân, T chưa có tiền án, tiền sự liên quan đến ma túy lần vi phạm này chưa đủ yếu tố cấu thành tội phạm nên Công an huyện Yên Lạc xử phạt vi phạm hành chính là đúng pháp luật.

[5] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Văn C phạm tội “Mua bán trái phép chất ma tuý”.

Căn cứ vào khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự năm 2015.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Văn C 02 (Hai) năm 09 (Chín) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ, tạm giam ngày 07/7/2019.

n cứ vào khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015; Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015:

Tch thu sung vào ngân sách nhà nước số tiền 300.000 đồng.

Tch thu bán phát mại sung vào ngân sách nhà nước 02 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia của Nguyễn Văn C và Nguyễn Văn T.

Tch thu tiêu huỷ: 01 bao gói niêm phong số 1368/GĐ; 01 bơm kim tiêm, 01 mảnh giấy ghi 139, 193.

Trả lại cho Nguyễn Văn C 35.000 đồng nhưng cần tạm giữ để đảm bảo thi hành án (Các vật chứng có đặc điểm như biên bản giao nhận vật chứng ngày 09 tháng 10 năm 2019 giữa Công an huyện Yên Lạc và Chi cục Thi hành án Dân sự huyện Yên Lạc).

Về án phí: Căn cứ Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự, Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án buộc bị cáo Nguyễn Văn C phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án bị cáo có mặt có quyền kháng cáo bản án. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

257
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 50/2019/HS-ST ngày 30/10/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:50/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Yên Lạc - Vĩnh Phúc
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về