Bản án 50/2019/HS-ST ngày 26/02/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ VINH, TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 50/2019/HS-ST NGÀY 26/02/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 26 tháng 02 năm 2019, tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 32/2019/HSST ngày 23 tháng 01 năm 2019. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 52/2019/QĐXXST-HS ngày 14 tháng 02 năm 2019 đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Văn Đ; Tên gọi khác: không; Sinh năm 1998 tại Con Cuông, Nghệ An; Nơi đăng ký thường trú: thôn 2/9, xã K, huyện C, tỉnh Nghệ An; Nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: 12/12; Dân tộc: kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn K (chết) và bà Phạm Thị L; chưa có vợ con; Tiền án, tiền sự: không. Bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 06/11/2018 đến nay. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Ngày 05/11/2018, Nguyễn Văn Đ đón xe khách đi từ tỉnh Y về Nghệ An để về thăm nhà tại xã K, huyện C, tỉnh Nghệ An thì được một người bạn mới quen tên H đưa cho 500.000 đồng cùng số điện thoại 0973.114025 và dặn Đ khi nào về đến khu vực bến xe V, tỉnh Nghệ An thì gọi điện cho một nam thanh niên tên T theo số điện thoại trên để mua 01 gói ma túy với giá 500.000 đồng rồi đưa ra tỉnh Y để cả hai cùng sử dụng. Đến khoảng 02 giờ ngày 06/11/2018 Đ về đến bến xe V thì Đ gọi điện vào số điện thoại mà H cho thì gặp một nam thanh niên (Đức không biết lai lịch, địa chỉ) và hỏi mua của người này 01 gói ma túy dạng đá với giá 500.000 đồng. Sau khi mua được ma túy, Nguyễn Văn Đ cất giấu số ma túy đó trong ví đựng tiền của mình rồi đón xe khách đi về tại thôn 2/9, xã K, huyện C, tỉnh Nghệ An thăm gia đình. Đến khoảng 15 giờ cùng ngày 06/11/2018, Đ cầm theo số ma túy trên và đi xe khách xuống thành phố V để đón xe ra tỉnh Y, khi đi đến khu vực bến xe V do chưa có xe khách đi Y nên Đđi bộ ra khu vực cầu vượt thuộc xóm 15 xã K, thành phố V, tỉnh Nghệ An thì bị tổ công tác của đội Công an phụ trách xã và quản lý Bảo vệ dân phố Công an thành phố Vinh phát hiện bắt quả tang, thu giữ của Nguyễn Văn Đ 01 bao potylen màu trắng, bên trong có chứa chất tinh thể màu trắng; 01 điện thoại di động hiệu Samsung A6 và 01 ví da màu đen. Tổ công tác dẫn giải Đ cùng tang vật về trụ sở Công an thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An lập biên bản bắt người phạm tội quả tang. Tại cơ quan cảnh sát điều tra công an thành phố Vinh, Nguyễn Văn Đ đã khai nhận hành vi phạm tội của mình

Tại Kết luận giám định số 1191/KL-PC09 (MT) ngày 11/11/2018 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nghệ An kết luận: “Mẫu chất tinh thể màu trắng thu giữ của Nguyễn Văn Đgửi tới giám định là ma túy (Methamphetamine) có khối lượng là 0,155gam”.

Tại Bản cáo trạng số 57/CT-VKS-HS ngày 22/01/2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vinh đã truy tố Nguyễn Văn Đ về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại Điểm c Khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vinh giữ quyền công tố tại phiên tòa đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51của Bộ luật Hình sự năm 2015 xử phạt Nguyễn Văn Đ từ 12 đến 15 tháng tù và đề nghị áp dụng điểm a Khoản 2, khoản 4 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 xử lý vật chứng theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa, bị cáo hoàn toàn thừa nhận hành vi phạm tội như Cáo trạng của Viện kiểm sát đã quy kết và không tranh luận gì mà chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an thành phố Vinh, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vinh, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Về nội dung:

[2.1]. Tại phiên toà, bị cáo Nguyễn Văn Đ khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung Cáo trạng Viện kiểm sát truy tố. Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo trong giai đoạn điều tra và tài liệu khác có tại hồ sơ vụ án.Vì vậy, có đầy đủ cơ sở để khẳng định: Khoảng 19 giờ 30 phút ngày 06/11/2018 trên đường L thuộc xóm 15 xã K, thành phố V, tỉnh Nghệ An, Nguyễn Văn Đđang cất giấu trái phép 0,155 gam ma túy tổng hợp (Methamphetamine) để sử dụng thì bị bắt quả tang. Hành vi mà Nguyễn Văn Đ thực hiện đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c Khoản 1 Điều 249 BLHS như Cáo trạng của Viện kiểm sát đã quy kết.

[2.2]. Vụ án thuộc loại nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo đã trực tiếp xâm hại đến chính sách quản lý độc quyền của nhà nước đối với các chất ma túy. Hành vi đó gây mất ổn định an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội tại địa phương, là nguyên nhân gây ra nhiều loại tội phạm khác, vì vậy cần phải xét xử nghiêm, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhất định mới đủ để giáo dục riêng cũng như phòng ngừa chung. Tuy nhiên, xét thấy quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo có thái độ khai báo thành khẩn, tỏ ra ăn năn hối cải nên cần áp dụng điểm s Khoản 1 Điều 54 của Bộ luật Hình sự để giảm nhẹ một phần hình cho bị cáo như Viện kiểm sát đề nghị.

[2.3]. Về hình phạt bổ sung: Đối với loại tội này, ngoài hình phạt chính, người phạm tội còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền. Xét thấy, bị không có công ăn việc làm ổn định, không có thu nhập và tài sản riêng nên miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền cho bị cáo.

Đối với người nam thanh niên tên H đã đưa tiền cho Đ để mua ma túy và nam thanh niên đã bán ma túy cho Đ, do bị cáo không biết lai lịch, địa chỉ cụ thể nên Cơ quan điều tra tiếp xác minh, làm rõ xử lý sau.

[2.4]. Về xử lý vật chứng: - Đối với 0,155 gam ma túy tổng hợp (Methamphetamine) (đã lấy một ít gửi giám định, số còn lại được bỏ vào 01 phong bì thư bưu điện dán kín và niêm phong đúng quy định) là vật thuộc loại Nhà nước cấm tàng trữ nên cần tịch thu tiêu hủy.

- Đối với 01 điện thoại di động hiệu Samsung A6 và 01 ví da màu đen là công cụ phương tiện phạm tội nên cần tịch thu nộp ngân sách nhà nước.

[2.5]. Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Văn Đ phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Nguyễn Văn Đ 12 (Mười hai) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam 07/11/2018.

Về xử lý vật chứng: Căn cứ điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015: Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì thư niêm phong dán kín bên trong có chứa ma túy thu giữ của Nguyễn Văn Đ; Tịch thu hóa giá nộp ngân sách nhà nước 01 điện thoại di động hiệu Samsung A6 và 01 ví da màu đen thu giữ của Nguyễn Văn Đức. (Số vật chứng này hiện có tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Vinh theo Phiếu nhập kho số NK127 ngày 23 tháng 01năm 2019)

Về án phí:

Áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án buộc Nguyễn Văn Đ phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

185
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 50/2019/HS-ST ngày 26/02/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:50/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Vinh - Nghệ An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/02/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về