Bản án 50/2019/HS-ST ngày 15/07/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TUẦN GIÁO - TỈNH ĐIỆN BIÊN

BẢN ÁN 50/2019/HS-ST NGÀY 15/07/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 15 tháng 7 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tuần Giáo, tỉnh Điện Biên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 64/2019/TLST-HS ngày 02 tháng 7 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 52/2019/QĐXXST-HS ngày 03 tháng 7 năm 2019 đối với bị cáo:

Họ và tên: Lò Văn T; tên gọi khác: Không. Sinh năm: 1978, tại: xã N, huyện T, tỉnh Điện Biên. Nơi cư trú: Bản N, xã N, huyện T, tỉnh Điện Biên; nghề nghiệp: Nông nghiệp; trình độ văn hóa: Lớp 1; dân tộc: Thái; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lò Văn Đ (đã chết) và con bà Lò Thị T, sinh năm 1956; có vợ Lò Thị T, sinh năm 1980 và có 03 người con, con lớn nhất sinh năm 2001, con nhỏ nhất sinh năm 2005; tiền sự, tiền án: Không; nhân thân: Bị cáo chưa bị xét xử và xử phạt vi phạm hành chính; bị cáo bị tạm giữ ngày 29/5/2019, tạm giam từ ngày 04/6/2019 cho đến nay, có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 17 giờ 30 phút ngày 28/5/2019, bị cáo Lò Văn T từ nhà điều khiển xe máy đến thị trấn T, huyện T để bán sắt vụn. Khi đi đến khu vực bản C, thị trấn T, thì gặp một người phụ nữ tên là N, không rõ tuổi, địa chỉ. Khi gặp, bị cáo chủ động hỏi “chị ơi có biết chỗ nào bán ma túy tổng hợp không?”, N trả lời “có, mua bao nhiêu ?”, bị cáo hỏi “một viên bao nhiêu tiền?”, N trả lời “một viên năm mươi nghìn đồng”. Bị cáo đồng ý mua và lấy 100.000đ (một trăm nghìn đồng) đưa cho N, Nhận tiền xong N đưa cho bị cáo 02 gói nilon màu hồng bên trong chứa ma túy tổng hợp. Việc trao đổi mua bán ma túy chỉ có bị cáo và N biết với nhau ngoài ra không có ai biết và tham gia cùng. Sau khi mua được ma túy tổng hợp, bị cáo cất giấu vào trong túi quần đang mặc đi về nhà, nhằm mục đích để sử dụng. Đến khoảng 08 giờ ngày 29/5/2019, bị cáo Lò Văn T điều khiển xe máy đến trạm y tế xã M, huyện T đi uống thuốc Mathadone, trên đường đi về đến khu vực bản H, xã M thì bị tổ công tác Công an huyện Tuần Giáo phát hiện bắt quả tang, thu giữ 02 viên ma túy tổng hợp Methamphetamine có khối lượng 0,18 gam; tạm giữ 01 điện thoại di động nhãn hiệu Boway vỏ màu trắng, 01 điện thoại di động nhãn hiệu Philips vỏ màu bạc và 01 Xe máy nhãn hiệu SYW, loại Win, màu đen.

Tại bản Kết luận giám định số: 562/GĐ-PC09 ngày 10/6/2019 của phòng kỹ thuật hình sự công an tỉnh Điện Biên kết luận: “Mẫu chất bột màu trắng trích ra từ vật chứng thu giữ của bị cáo Lò Văn T gửi giám định là ma tuý: Loại Methamphetamine. Khối lượng vật chứng thu giữ của bị cáo Lò Văn T là 0,18 gam”.

Tại Cơ quan Điều tra và phiên tòa hôm nay bị cáo Lò Văn T khai nhận: Ngày 28/5/2019 bị cáo mua 02 viên ma túy tổng hợp Methamphetamine với giá 100.000đ (một trăm nghìn đồng), nhằm mục đích để sử dụng. Nhưng bị cáo chưa kịp sử dụng vào hồi 10 giờ 10 phút ngày 29/5/2019 bị tổ công tác, Công an huyện Tuần Giáo bắt quả tang thu giữ của bị cáo 0,18 gam Methamphetamine; tạm giữ 01 điện thoại di động nhãn hiệu Boway vỏ màu trắng, 01 điện thoại di động nhãn hiệu Philips vỏ màu bạc và 01 Xe máy nhãn hiệu SYW, loại Win, màu đen.

Tại bản Cáo trạng số: 67/CT- VKS ngày 01 tháng 7 năm 2019, của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuần Giáo đã truy tố bị cáo Lò Văn T về tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy theo Điểm c Khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Kiểm sát viên giữ nguyên nội dung bản cáo trạng đã truy tố bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng Điểm c Khoản 1 Điều 249; Điểm s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo từ 18 tháng đến 24 tháng tù; không áp dụng hình phạt bổ sung bằng tiền đối với bị cáo theo quy định tại Khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự; đề nghị tuyên tịch thu tiêu hủy 01 gói niêm phong màu trắng các mép đều được dán kín bên trong có chứa: Mẫu số 1 khối lượng là 0,05 gam Methamphetamine, mẫu số 2 khối lượng là 0,05 gam Methamphetamine; đối với 01 xe mô tô nhãn hiệu SYM loại Win màu đen không gắn biển kiểm soát, là phương tiện thực hiện hành vi phạm tội của bị cáo đề nghị tịch thu nộp ngân sách Nhà nước; đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu Boway vỏ màu trắng và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Philips vỏ màu bạc đã qua sử dụng, không liên quan đến hành vi phạm tội, đề nghị trả lại cho bị cáo. Áp dụng khoản 2 Điều 136 BLTTHS, Điểm đ Khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của UBTVQH14, miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

Bị cáo hoàn toàn nhất trí với bản Cáo trạng và không có ý kiến tranh luận đối với bản luận tội của Kiểm sát viên.

Lời nói sau cùng của bị cáo: Ngoài xin giảm nhẹ hình phạt bị cáo không có ý kiến gì khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Tn cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi của bị cáo: Ngày 28/5/2019 bị cáo Lò Văn T mua 02 viên ma túy tổng hợp Methamphetamine với giá 100.000đ (một trăm nghìn đồng), nhằm mục đích để sử dụng. Nhưng chưa kịp sử dụng vào hồi 10 giờ 10 phút ngày 29/5/2019 tổ công tác, Công an huyện Tuần Giáo bắt quả tang thu giữ của bị cáo 0,18 gam Methamphetamine. Hành vi của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo Điều 249 Bộ luật Hình sự. Bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự về tổng khối lượng Methamphetamine là 0,18 gam đã thu giữ. Vì vậy, Cáo trạng truy tố bị cáo là hoàn toàn đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Bị cáo là người có đủ năng lực để chịu trách nhiệm hình sự về hành vi phạm tội của bị cáo. Hội đồng xét xử kết luận: Bị cáo Lò Văn T phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại Điểm c Khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

[2] Về tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội thì hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, hành vi đó đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy. Hành vi của bị cáo trực tiếp, tiếp tay cho những người chuyên mua bán trái phép các chất ma túy tồn tại và phát triển; là nguyên nhân phát sinh các loại tội phạm .... làm ảnh hưởng đến trật tự trị an, an toàn xã hội trên địa bàn huyện Tuần Giáo nói riêng và tỉnh Điện Biên nói chung. Tội phạm mà bị cáo thực hiện là tội phạm nghiêm trọng. Vì vậy hành vi của bị cáo cần phải xử lý nghiêm minh trước pháp luật, mới có tác dụng phòng ngừa và kiên quyết đấu tranh chống tội phạm.

[3] Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân: Tại giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử bị cáo thành khẩn khai báo hành vi phạm tội của mình; nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điểm s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 52 Bộ luật Hình sự. Bị cáo sinh ra tại xã N, huyện T, tỉnh Điên Biên; năm 2000 kết hôn với Lò Thị T; năm 2010 nghiện chất ma túy, từ năm 2015 cai nghiện chất ma túy bằng hình thức uống thuốc Methadone cho đến ngày 29/5/2019 bị bắt quả tang về hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy. Cần áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với các bị cáo thông qua hình phạt để răn đe, giáo dục bị cáo thành người lương thiện, có ý thức tuân thủ pháp luật đồng thời giúp bị cáo cai nghiện chất ma túy.

[4] Về hình phạt bổ sung: Ngoài hình phạt chính bị cáo còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung bằng hình thức phạt tiền, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản theo quy định tại Khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Xét thấy điều kiện kinh tế gia đình bị cáo khó khăn, bản thân bị cáo là người dân tộc thiểu số ở xã có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn. Thu nhập của bị cáo chỉ dựa vào sản xuất nông nghiệp, nên không có khả năng thi hành. Do đó, Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[5] Kiểm sát viên đề nghị xử phạt bị cáo từ 18 tháng đến 24 tháng tù và không phạt bổ sung bằng tiền đối với bị cáo. Hội đồng xét xử thấy là phù hợp với tính chất, mức độ và hành vi phạm tội của bị cáo, nên cần chấp nhận.

[6] Đối với người phụ nữ tên N bị cáo khai đã bán Methamphetamine cho bị cáo vào ngày 28/5/2019, quá trình điều tra thấy khi mua bán Heroine, bị cáo không biết tên, địa chỉ của người phụ nữ đó. Cơ quan cảnh sát điều tra, Công an huyện Tuần Giáo không có căn cứ để điều tra làm rõ, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[8] Vật chứng vụ án: Đối với 01 gói niêm phong màu trắng các mép đều được dán kín bên trong có chứa: Mẫu số 1 khối lượng là 0,05 gam Methamphetamine, mẫu số 2 khối lượng là 0,05 gam Methamphetamine cần tịch thu để tiêu hủy; đối với 01 xe mô tô nhãn hiệu SYM loại Win màu đen không gắn biển kiểm soát, là phương tiện thực hiện hành vi phạm tội của bị cáo, cần tịch thu nộp ngân sách Nhà nước; đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu Boway vỏ màu trắng và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Philips vỏ màu bạc đã qua sử dụng, không liên quan đến hành vi phạm tội, đề nghị trả lại cho bị cáo theo quy định tại Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

[9] Về hành vi và các Quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Tuần Giáo; Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuần Giáo, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan đã thực hiện đều hợp pháp và được chấp nhận.

[10] Án phí: Bị cáo là người dân tộc thiểu số ở xã có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn và đã có đơn xin miễn án phí; theo quy định tại Khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điểm đ Khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, bị cáo được miễn nộp toàn bộ tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điểm c Khoản 1 Điều 249; Điểm s Khoản 1 Điều 51; Điểm a, c Khoản 1, 2 Điều 47 Bộ luật Hình sự. Điểm a Khoản 2, 3 Điều 106; Khoản 2 Điều 136; Điều 331; Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự. Điểm đ Khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

- Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Lò Văn T phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.

- Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Lò Văn T 18 (mười tám) tháng tù, thời hạn chấp hành án phạt tù tính từ ngày 29/5/2019.

- Về vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 01 gói niêm phong màu trắng các mép đều được dán kín bên trong có chứa: Mẫu số 1 khối lượng là 0,05 gam Methamphetamine, mẫu số 2 khối lượng là 0,05 gam Methamphetamine; tịch thu nộp ngân sách Nhà nước 01 xe mô tô nhãn hiệu SYM loại Win màu đen không gắn biển kiểm soát; trả lại cho bị cáo 01 điện thoại di động nhãn hiệu Boway vỏ màu trắng và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Philips vỏ màu bạc đã qua sử dụng theo phiếu nhập kho số: PNKVC 82 ngày 05/7/2019 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Tuần Giáo.

- Về án phí: Miễn nộp toàn bộ tiền án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

- Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án (ngày 15/7/2019).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

179
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 50/2019/HS-ST ngày 15/07/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:50/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tuần Giáo - Điện Biên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 15/07/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về