Bản án 50/2019/HS-ST ngày 08/05/2019 về tội vi phạm quy định ĐKPTGTĐB

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ TÂN UYÊN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 50/2019/HS-ST NGÀY 08/05/2019 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH ĐKPTGTĐB

Ngày 08 tháng 5 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 46/2019/TLST-HS ngày 03 tháng 4 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 49/2019/QĐXXST-HS ngày 24 tháng 4 năm 2019 đối với bị cáo:

Lê Trương Đ, sinh năm 1964, tại Bình Định; nơi cư trú: Thôn T, xã C, huyện P, tỉnh Bình Định; tạm trú: khu phố V, phường A, thị xã Th, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: Lái xe; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê B và bà Trương Thị Như U; có vợ tên Nguyễn Thị Bích L và có 03 con, lớn nhất sinh năm 1988, nhỏ nhất sinh năm 1995; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo tại ngoại; có mặt.

- Bị hại: Thạch T, sinh năm 2001 (đã chết).

Người đại diện hợp pháp của bị hại: Thạch T1, sinh năm 1977 (là cha ruột) và bà Lý Thị C, sinh năm 1981 (là mẹ ruột); cùng địa chỉ: Ấp M, xã M1, huyện V, tỉnh Kiên Giang; vắng mặt có đơn.

- Bị đơn dân sự: Công ty X; địa chỉ: Thửa đất số A, tờ bản đồ số B khu phố T, phường H, thị xã U, tỉnh Bình Dương. Người đại diện hợp pháp: Bà Nguyễn Thới Hoàng D, chức vụ: Phó Tổng giám đốc, là người đại diện theo ủy quyền; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Lê Trương Đ, có giấy phép lái xe ôtô hạng D, FC, số 520106000873 do Sở Giao thông Vận tải tỉnh Bình Dương cấp ngày 13-7-2018 có giá trị đến 13-7-2023. Lê Trương Đ làm tài xế lái xe cho Công ty X có trụ sở tại khu phố T, phường H, thị xã U, tỉnh Bình Dương.

Khoảng 13 giờ ngày 08 tháng 10 năm 2018, Lê Trương Đ, điều khiển xe ô tô đầu kéo 61L-3942 lưu thông trên đường ĐT747B theo hướng đi từ ngã tư lô 349 về hướng vòng xoay cây xăng Kim Hằng. Khi lưu thông đến đoạn đường thuộc khu phố Long Bình, phường Khánh Bình, thị xã Tân Uyên (ngã tư Tiến Triển), Lê Trương Đ điều khiển xe ôtô đầu kéo 61L-3942 chuyển hướng rẽ phải vào đường ĐH409, do Đ không chú ý quan sát các phương tiện đang lưu thông cùng chiều phía trong lề bên phải theo hướng lưu thông nên khi Đ điều khiển xe ô tô đầu kéo biển số 61L-3942 chuyển hướng rẽ phải thì va chạm với xe mô tô biển số 68L1-023.70 do Thạch T, sinh năm 2001 (Không có giấy phép lái xe theo quy định) điều khiển lưu thông cùng chiều bên phải xe ô tô. Hậu quả, Thạch T bị chấn thương nặng được đưa đi cấp cứu và tử vong tại Bệnh viện Chợ Rẫy thành phố Hồ Chí Minh vào ngày 06-11-2018, xe mô tô 68L1-023.70 và xe ô tô đầu kéo biển số 61L-3942 hư hỏng nhẹ.

Hiện trường tai nạn xảy ra trên đoạn đường thẳng, mặt đường được rải nhựa bằng phẳng, chiều rộng mặt đường 24m, giữa đường có dãy phân cách cố định chia mặt đường thành hai phần lưu thông riêng biệt, mỗi phần đường rộng 12m, trên mỗi phần đường có vạch sơn trắng chia mặt đường thành 03 làn đường, mỗi làn đường rộng 4m. Đoạn đường xảy ra tai nạn là đoạn đường giao nhau giữa đường ĐH409 và đường ĐT 747B.

Chọn mét lề bên phải đường ĐT747B theo hướng lưu thông đi từ ngã tư Lô 349 về hướng ngã tư Tiến Triển và mép lề phải đường ĐH409 theo hướng lưu thông đi từ ngã tư Tiến Triển về hướng ngã tư Ông Đông làm mép lề chuẩn cho hiện trường.

Lấy trụ điện số 113 nằm trên hành lang đường bên phải theo hướng chọn là vật cố định làm điểm chuẩn. Khoảng cách từ điểm chuẩn đo đến trục sau bên phải của xe ô tô đầu kéo biển số 61L-3942 là 9m.

Sau tai nạn xe ô tô đầu kéo biển số 61L-3942 dừng lại trên phần đường ĐH409, đầu xe hướng vào đường ĐH409, đuôi xe hướng ngã tư Tiến Triển. Khoảng cách từ trục trước xe đo đến mép lề chuẩn đường ĐH409 là 0,5m; khoảng cách từ trục sau bên phải đo đến trục trước xe mô tô biển số 68L1-023.70 là 9,5m.

Xe đầu kéo biển số 61L-3942 để lại vết phanh lốp sau bên trái hình vòng cung theo chiều kim đồng hồ dài 6,50m. Khoảng cách từ điểm đầu vết đo đến mép lề chuẩn đường ĐH409 là 0.5m và đo đến điểm đầu vết cày của xe mô tô biển số 68L1-023.70 là 02m.

Sau tai nạn xe mô tô biển số 68L1-023.70 ngã bên phải trên phần đường bên trái của đường ĐH409 theo hướng lưu thông đi về ngã tư Ông Đông. Đầu xe hướng vào lề trái đường ĐH409, đuôi xe hướng sang lề chuẩn đường ĐH409 hơi chếch về hướng ngã tư Ông Đông. Khoảng cách từ trục trước đo đến mép lề chuẩn đường ĐH409 là 9m và đo đến vết máu là 0.40m, khoảng cách từ trục sau đo đến mép lề chuẩn đường ĐH409 là 8m.

Khi ngã xe mô tô biển số 68L1-02370 để lại vết cày không liên tục theo hướng đi từ ngã tư Lô 349 về hướng ngã tư Tiến Triển hơi chếch về hướng đường ĐH409 dài 11,6m. Điểm đầu vết cày cách mép lề chuẩn đường ĐH409 là 2,7m, điểm cuối vết là vị trí xe mô tô ngã.

Hiện trường để lại vết máu trên mép lề trái đường ĐH409 và cách mép lề chuẩn đường ĐH409 là 9,4m.

Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Tân Uyên tạm giữ: Một xe mô tô và một giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô biển số 68L1-023.70, nhãn hiệu Honda, số khung: 1202BY312337, số máy: HC12E3112382; 01 xe ô tô, một giấy chứng nhận đăng ký và một giấy chứng nhận kiểm định của xe ô tô mang biển số 61L-3942, nhãn hiệu VOLVO, loại xe đầu kéo, số khung 4N349506, số máy 79003611; Một giấy phép lái xe hạng D, FC, số 520106000873, do sở GTVT tỉnh Bình Dương cấp ngày 13-7-2018 có giá trị đến ngày 13-7-2023 mang tên Lê Trương Đ.

Bản kết luận số 04/GĐ-PC54 ngày 03 tháng 12 năm 2018 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương kết luận: Vị trí va chạm đầu tiên giữa ô tô đầu kéo biển số 61L-3942 và xe mô tô biển số 68L1-023.70 là đầu tay cầm bên trái của xe mô tô va chạm với ốp kim loại hình bình hành sơn màu đen bên phải đầu xe ôtô 61L-3942 ngay phía sau xe đèn tín hiệu rẽ phải. Cơ chế hình thành dấu vết trên hai phương tiện là xe mô tô biển số 68L1-023.70 lưu thông trên đường ĐT747B theo hướng đi từ ngã tư lô 349 về hướng vòng xoay cây xăng Kim Hằng, khi đến đoạn giao nhau với đường ĐH409 thì xảy ra va chạm với xe ô tô đầu kéo biển số 61L-3942 đang lưu thông cùng chiều phía trước chuyển hướng rẽ phải làm xe mô tô 68L1-023.70 đổ, ngã, trượt trên mặt đường gây ra các dấu vết trên hai phương tiện. Khi xảy ra va chạm tốc độ xe mô tô lớn hơn xe ô tô.

Kết luận giám định pháp y tử thi số 549/GĐPY của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương kết luận: Nguyên nhân chết của Thạch T là do đa chấn thương, chấn thương sọ não (vỡ xương hộp sọ, dập não, xuất huyết nội sọ).

Xe mô tô biển số 68L1-02370, nhãn hiệu Honda, số khung: 1202BY312337, số máy: HC12E3112382 do ông Thạch T1, là cha ruột của nạn nhân Thạch T đăng ký sở hữu. Ngày 18-12-2018 Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã Tân Uyên đã ra quyết định xử lý vật chứng số 27 trả xe cho ông Thạch T1.

Giấy chứng nhận đăng ký xe ô tô 61L-3942, Giấy chứng nhận kiểm định an toàn kỹ thuật xe ô tô biển số 61L-3942 và xe ô tô 61L-3942, nhãn hiệu VOLVO, loại xe đầu kéo, số khung 4N349506, số máy: 79003611 do Công ty X đăng ký chủ sở hữu. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Tân Uyên đã ra quyết định xử lý vật chứng số 28 ngày 18-12-2018 trả xe và các giấy tờ nêu trên cho Công ty X.

Về trách nhiệm dân sự: Công ty X và bị cáo Lê Trương Đ đã bồi thường chi phí mai táng, sửa xe mô tô và tổn thất tinh thần cho đại diện hợp pháp của bị hại Thạch T là ông Thạch T1 và bà Lý Thị C với số tiền là 163.000.000 đồng. Ông Thạch T1 và bà Lý Thị C có đơn xin miễn trách nhiệm hình sự cho bị cáo Lê Trương Đ và không có yêu cầu gì khác.

Cáo trạng số 55/CT-VKS.TU ngày 02-4-2019 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Tân Uyên truy tố bị cáo Lê Trương Đ về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” theo điểm a khoản 1 Điều 260 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Tân Uyên trong phần tranh luận, giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 260, điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, Điều 65 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 xử phạt bị cáo Lê Trương Đ mức hình phạt từ 01 (Một) năm đến 01 (Một) năm 06 (Sáu) tháng tù nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách 02 (Hai) năm đến 03 (Ba) năm.

Về trách nhiệm dân sự: Bị đơn dân sự và bị cáo đã bồi thường thiệt hại cho đại diện hợp pháp của bị hại và đại diện hợp pháp của bị hại không có yêu cầu gì khác nên đề nghị Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

Về xử lý vật chứng và biện pháp tư pháp: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự và Điều 47 Bộ luật Hình sự, tuyên trả lại cho bị cáo Lê Trương Đ 01 giấy phép lái xe hạng D, FC, số 520106000873 do Sở giao thông vận tải tỉnh Bình Dương cấp ngày 13-7-2018 cho Lê Trương Đ.

Tại phiên tòa, bị cáo Lê Trương Đ đã khai nhận hành vi phạm tội như nội dung Cáo trạng truy tố đối với bị cáo.

Đại diện hợp pháp của bị đơn dân sự trình bày: Trong số tiền 163.000.000 đồng bồi thường cho gia đình bị hại có phần tiền của bị cáo là 3.000.000 đồng. Đối với số tiền mà bị đơn dân sự đã bồi thường cho gia đình bị hại, bị đơn dân sự không có yêu cầu gì đối với bị cáo. Đối với Giấy chứng nhận đăng ký xe ô tô 61L-3942,Giấy chứng nhận kiểm định an toàn kỹ thuật xe ô tô biển số 61L-3942 và xe ô tô 61L-3942, nhãn hiệu VOLVO, loại xe đầu kéo thì bị đơn dân sự đã nhận lại.

Bị cáo nói lời sau cùng, bị cáo đã ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình mong Hội đồng xét xử xem xét mức hình phạt phù hợp cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Tân Uyên, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Tân Uyên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, bị hại không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội. Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, biên bản hỏi cung bị can cùng những tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, đủ cơ sở kết luận: Ngày 08-10- 2018, bị cáo Lê Trương Đ điều khiển xe ô tô đầu kéo biển số 60L-3942 lưu thông trên đường ĐT 747B theo hướng từ ngã tư lô 389 về hướng vòng xoay Kim Hằng, đến đoạn đường thuộc khu phố Long Bình, phường Khánh Bình, thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương, bị cáo điều khiển xe chuyển hướng rẻ phải vào đường ĐH409, bị cáo không chú ý quan sát các phương tiện đang lưu thông cùng chiều phía trong lề bên phải dẫn đến va chạm với xe mô tô biển số 68L1-023.70 do Thạch T điều khiển lưu thông cùng chiều bên phải xe làm cho Thạch T bị thương nặng và tử vong vào ngày 06-11-2018. Hành vi của bị cáo đã vi phạm quy định khoản 2 Điều 15 Luật giao thông đường bộ và đủ yếu tố cấu thành tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 260 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Do vậy, Cáo trạng của Viện Kiểm sát thị xã Tân Uyên truy tố đối với bị cáo Lê Trương Đ về tội danh và điều khoản như trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội.

[3] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến trật tự an toàn giao thông đường bộ, gây thiệt hại cho sức khỏe của người khác. Với tình hình tai nạn giao thông xảy ra ngày càng gia tăng như hiện nay, là do ý thức không chấp hành luật giao thông đường bộ của người tham gia giao thông mà phần lớn là lỗi của người điều khiển phương tiện vi phạm luật giao thông đường bộ dẫn đến gây tai nạn cho người khác. Hậu quả của những hành vi này là gây thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng đến sức khỏe của nạn nhân. Bị hại cũng có phần lỗi là điều khiển xe tham gia lưu thông không có giấy phép lái xe, chạy với tốc độ cao. Do đó, đối với hành vi của bị cáo cần phải xử lý, tương xứng với tính chất, mức độ phạm tội mà bị cáo đã thực hiện. Đồng thời, cũng nhằm răn đe những người tham gia giao thông nhưng không tuân thủ luật giao thông đường bộ, xem thường sức khỏe, tính mạng của người khác. Khi quyết định hình phạt cần xem xét toàn diện về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ đối với bị cáo.

[4] Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân tốt.

[5] Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo phạm tội không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[7] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, bị cáo tự nguyện bồi thường thiệt hại, người đại diện hợp pháp của bị hại có đơn xin bãi nại cho bị cáo. Do đó, Hội đồng xét xử xem xét áp dụng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự khi quyết định hình phạt đối với bị cáo.

[8] Xét thấy, bị cáo Lê Trương Đ có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự, ngoài lần phạm tội này thì bản thân bị cáo luôn chấp hành tốt chính sách pháp luật và thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ của công dân nơi cư trú, làm việc; bị cáo có hai tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự; bị cáo có nơi cư trú rõ ràng; không cần phải bắt bị cáo chấp hành hình phạt tù thì bị cáo cũng có khả năng tự cải tạo và việc cho bị cáo hưởng án treo không gây nguy hiểm cho xã hội, không ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội. Đây là điều kiện để được hưởng án treo theo quy định tại Điều 65 Bộ luật Hình sự và Nghị quyết 02/2018/NQ- HĐTP ngày 15-5-2018 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng Điều 65 của Bộ luật Hình sự về án treo. Do đó, Hội đồng xét xử xét thấy không cần thiết phải cách ly các bị cáo ra khỏi xã hội, áp dụng Điều 65 Bộ luật Hình sự cho các bị cáo hưởng án treo và giao bị cáo cho chính quyền địa phương nơi bị cáo cư trú giám sát, giáo dục bị cáo trong thời gian nhất định nhằm thể hiện chính sách khoan hồng của pháp luật nhà nước ta.

[9] Mức hình phạt đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa đối với bị cáo là phù hợp với tính chất, mức độ hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện.

[10] Về trách nhiệm dân sự: Người đại diện hợp pháp của bị hại không có yêu cầu gì khác nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét. Đối với số tiền mà Công ty X đã bồi thường cho đại diện hợp pháp của bị hại, quá trình điều tra và tại phiên tòa bị đơn dân sự không có yêu cầu nên không giải quyết trong vụ án này. Nếu có yêu cầu, công ty có thể khởi kiện trong một vụ án khác.

[11] Về xử lý vật chứng và biện pháp tư pháp: 01 giấy phép lái xe hạng D, FC, số 520106000873 do Sở giao thông vận tải tỉnh Bình Dương cấp ngày 13-7-2018 cho Lê Trương Đ là của bị cáo nên giao trả lại cho bị cáo.

[12] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBNTVQH14 ngày 30- 12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 260, Điều 47, điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, Điều 65 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017; Nghị quyết 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15-5-2018 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng Điều 65 của Bộ luật Hình sự về án treo; Điều 106, Điều 136, Điều 260, Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

1. Về trách nhiệm hình sự:

Tuyên bố bị cáo Lê Trương Đ phạm tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”.

Xử phạt bị cáo Lê Trương Đ 01 (Một) năm tù nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách 02 (Hai) năm. Thời gian thử thách tính từ ngày Tòa tuyên án 08-5-2019.

Giao bị cáo về Ủy ban nhân dân phường An Phú, thị xã Thuận An, tỉnh Bình Dương giám sát giáo dục trong thời gian thử thách. Trường hợp bị cáo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 69 Luật thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

2. Về trách nhiệm dân sự: Không đặt ra.

3. Về xử lý vật chứng và biện pháp tư pháp:

Trả lại cho bị cáo Lê Trương Đ 01 giấy phép lái xe hạng D, FC, số 520106000873 do Sở giao thông vận tải tỉnh Bình Dương cấp ngày 13-7-2018 có giá trị đến ngày 13-7-2023.

(Thể hiện tại biên bản giao, nhận vật chứng ngày 03-4-2019 của Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương)

4. Về án phí: Bị cáo Lê Trương Đ phải chịu 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo, bị đơn dân sự được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người đại diện hợp pháp của bị hại vắng mặt được quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

210
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 50/2019/HS-ST ngày 08/05/2019 về tội vi phạm quy định ĐKPTGTĐB

Số hiệu:50/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 08/05/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về