Bản án 50/2019/HS-ST ngày 06/08/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VĂN LÃNG, TỈNH LẠNG SƠN

BẢN ÁN 50/2019/HS-ST NGÀY 06/08/201 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 06 tháng 8 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 45/2019/TLST-HS ngày 10 tháng 7 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 47/2019/QĐXXST-HS ngày 24 tháng 7 năm 2019 đối với bị cáo:

Hoàng Văn H, tên gọi khác: Không có; sinh ngày 25 tháng 6 năm 1982 tại huyện L, tỉnh Lạng Sơn; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở: Thôn N (còn gọi là khu G), thị trấn N, huyện L, tỉnh Lạng Sơn; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa (học vấn): Không đi học; dân tộc: Tày; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Hoàng Văn L, sinh năm 1951 (đã chết) và con bà Lường Thị H, sinh năm 1949 (đã chết); có vợ là Lục Thị N sinh năm 1985 và có 02 con; tiền án, tiền sự: Không có; nhân thân: Chưa bị xử lý trách nhiệm hình sự hoặc xử phạt vi phạm hành chính; bị cáo bị tạm giữ, tạm giam tại nhà tạm giữ Công an huyện V, tỉnh Lạng Sơn từ ngày 28/3/2019 đến nay. Có mặt.

- Người bào chữa cho bị cáo: Bà Lương Thị Hương L - Trợ giúp viên pháp lý của Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh Lạng Sơn. Có mặt.

- Người chứng kiến: Anh Lường Văn T, sinh năm 1983. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hoàng Văn H, sinh ngày 25/6/1982; đăng ký hộ khẩu thường trú tại Thôn N (còn gọi là khu G), thị trấn N, huyện L, tỉnh Lạng Sơn; nghiện chất ma túy từ cuối năm 2016 đến nay. Từ tháng 02/2019, Hoàng Văn H đến xã T, huyện V, tỉnh Lạng Sơn làm thuê.

Khoảng 08 giờ 30 phút ngày 28/3/2019, Hoàng Văn H một mình đi bộ từ cổng chùa T theo đường mòn lên đỉnh đồi K thuộc thôn N, xã T, huyện V, tỉnh Lạng Sơn với mục đích tìm mua ma túy về sử dụng. Khi đến đỉnh đồi K, Hoàng Văn H gặp một người đàn ông Trung Quốc khoảng 37 tuổi (không biết họ tên, địa chỉ); người đó hỏi “Có mua ma túy không?”, Hoàng Văn H trả lời “Có” và đưa cho người đó 500.000 (năm trăm nghìn) đồng tiền Việt Nam. Người đàn ông Trung Quốc nhận tiền và đưa cho Hoàng Văn H 05 (năm) gói giấy nhỏ (trong đó có 04 gói giấy dòng kẻ ô ly màu trắng và 01 gói giấy màu trắng có in các số màu đỏ), bên trong mỗi gói giấy đều chứa chất ma túy heroine. Hoàng Văn H cho toàn bộ số ma túy vừa mua được gói vào trong túi ni lon màu trắng (loại túi đựng bơm kim tiêm) và cất giấu vào túi áo ngực bên trái đang mặc trên người; khoảng 12 giờ 15 phút cùng ngày Hoàng Văn H đi xuống chân đồi K thuộc thôn N, xã T, huyện V, tỉnh Lạng Sơn thì bị Tổ công tác Đồn Biên phòng T kiểm tra, phát hiện, bắt quả tang về hành vi tàng trữ số ma túy trên.

Tổ công tác đã tạm giữ của Hoàng Văn H gồm: 01 (một) gói ni lon màu trắng (loại túi đựng bơm kim tiêm) bên trong có 05 (năm) gói giấy nhỏ (trong đó có 04 gói giấy dòng kẻ ô ly màu trắng và 01 gói giấy màu trắng có in các số màu đỏ) có chứa chất bột màu trắng nghi là chất ma túy được niêm phong trong một phong bì theo quy định; 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Itel, màu đen đã qua sử dụng, bên trong lắp 01 (một) sim Viettel; 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA đã qua sử dụng, bên trong lắp 01 (một) sim Viettel.

Tại Kết luận giám định số 133/KL-PC09 ngày 29/3/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lạng Sơn kết luận: Chất bột màu trắng có trong 05 (năm) gói giấy gửi giám định đều là chất ma túy heroine, có tổng khối lượng 0,248 gam (đã trừ bì).

Tại bản Cáo trạng số 47/CT-VKS ngày 09/7/2019 của Viện Kiểm sát nhân dân huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn đã truy tố bị cáo Hoàng Văn H về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố bị cáo Hoàng Văn H phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy; áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, Điều 38, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo Hoàng Văn H từ 18 tháng đến 24 tháng tù giam. Bị cáo là người nghiện ma túy, không có nghề nghiệp và thu nhập ổn định, không có tài sản riêng có giá trị nên đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự; tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại sau giám định được để trong một phong bì niêm phong và toàn bộ vỏ bao gói là vật nhà nước cấm lưu hành và vật không còn giá trị sử dụng. Trả lại cho bị cáo Hoàng Văn H 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA đã qua sử dụng bên trong lắp 01 (một) sim VIETTEL và 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Itel, màu đen đã qua sử dụng, bên trong lắp 01 (một) sim VIETTEL là tài sản của bị cáo không liên quan đến hành vi phạm tội.

Người bào chữa cho bị cáo nhất trí với quan điểm truy tố của Viện kiểm sát về tội danh, hình phạt bổ sung và xử lý vật chứng. Về mức hình phạt: Bị cáo là người dân tộc thiểu số, không biết chữ nên nhận thức còn hạn chế, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, đề nghị Hội đồng xét xử cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo mức án từ 16 tháng đến 18 tháng tù giam.

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo Hoàng Văn H đều khai nhận hành vi phạm tội, nhất trí với bản Cáo trạng và luận tội của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn. Tại lời nói sau cùng, bị cáo xin được hưởng mức án nhẹ nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp. Người bào chữa đã thực hiện đúng các quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật.

[2] Về hành vi của bị cáo: Khoảng 12 giờ 15 phút ngày 28/3/2019, tại chân đường mòn đồi K thuộc thôn N, xã T, huyện V, tỉnh Lạng Sơn, Tổ công tác Đồn Biên phòng T đã phát hiện bắt quả tang Hoàng Văn H có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy heroine, có tổng khối lượng là 0,248 gam (đã trừ bì), với mục đích để sử dụng. Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, lời khai của người chứng kiến, phù hợp với vật chứng đã thu giữ được và Kết luận giám định của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lạng Sơn và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự; nhận thức được hành vi bị cáo thực hiện là vi phạm pháp luật, nhưng vẫn cố ý thực hiện. Vì vậy có đủ cơ sở để kết luận bị cáo Hoàng Văn H phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

[3] Xét tính chất, mức độ của hành vi phạm tội thấy rằng: Hành vi mà bị cáo thực hiện là nghiêm trọng, gây nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chế độ quản lý các chất ma túy của Nhà nước, gây mất trật tự an toàn xã hội, là nguyên nhân gián tiếp gây ra tệ nạn xã hội và các tội phạm khác. Bị cáo nhận thức được việc tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật, nhưng chỉ vì để phục vụ cho việc sử dụng ma túy của bản thân, bị cáo đã bất chấp pháp luật và dư luận xã hội, để thực hiện hành vi phạm tội.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo và ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

[5] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

[6] Về nhân thân: Bị cáo chưa có tiền án, tiền sự; chưa bị xử lý trách nhiệm hình sự hoặc xử lý vi phạm hành chính, tuy nhiên bị cáo nghiện ma túy từ năm 2016 đến nay, điều này thể hiện bị cáo thiếu tu dưỡng, rèn luyện bản thân.

[7] Trên cơ sở đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy cần thiết xử phạt cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định để cải tạo, giáo dục và phòng ngừa chung.

[8] Về hình phạt bổ sung: Theo Biên bản xác minh ngày 16/5/2019 của Cơ quan điều tra và qua xét hỏi công khai tại phiên tòa sơ thẩm thấy rằng: Bị cáo không có việc làm và thu nhập ổn định, không có tài sản riêng có giá trị, bản thân nghiện ma túy; vì vậy Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[9] Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; khoản 1, điểm a, c khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại sau giám định (0,193 gam heroine) được để trong một phong bì niêm phong bề mặt có in chữ “ĐỒN BIÊN PHÒNG T”, trên phong bì có chữ ký cùng tên của giám định viên Hoàng Mạnh H, trợ lý giám định, đóng dấu của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lạng Sơn tại phần giáp lai mới và toàn bộ các vỏ bao gói là vật Nhà nước cấm lưu hành và vật không còn giá trị sử dụng. Trả lại cho bị cáo Hoàng Văn H 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Itel màu đen đã qua sử dụng, bên trong lắp 01 (một) sim Viettel và 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA đã qua sử dụng bên trong lắp 01 (một) sim Viettel là tài sản của bị cáo không liên quan đến hành vi phạm tội.

[10] Xét đề nghị của người bào chữa cho bị cáo và đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn về tội danh, điều luật áp dụng, mức hình phạt, hình phạt bổ sung và xử lý vật chứng phù hợp với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo và quy định của pháp luật nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[11] Đối với người đàn ông bán ma túy cho bị cáo, bị cáo khai là người Trung Quốc và không biết họ tên, địa chỉ nên Cơ quan điều tra không xác minh làm rõ được; do đó không có căn cứ xem xét trong vụ án này.

[12] Bị cáo là người bị kết án, theo quy định tại khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; bị cáo phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm. Căn cứ các điều 331, 332 và Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249, Điều 38, điểm c khoản 1 Điều 47, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017);

Căn cứ vào khoản 1, điểm a, c khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106, khoản 2 Điều 136, Điều 331 và Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Hoàng Văn H phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.

2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Hoàng Văn H 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù giam, thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam ngày 28/3/2019.

3. Về xử lý vật chứng:

Tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại sau giám định (0,193 gam heroine) được để trong một phong bì niêm phong bề mặt có in chữ “ĐỒN BIÊN PHÒNG T”, trên phong bì có chữ ký cùng tên của giám định viên Hoàng Mạnh H, trợ lý giám định, đóng dấu của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lạng Sơn tại phần giáp lai mới và toàn bộ các vỏ bao gói.

Trả lại cho bị cáo Hoàng Văn H 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Itel màu đen đã qua sử dụng, bên trong lắp 01 (một) sim Viettel và 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA đã qua sử dụng bên trong lắp 01 (một) sim Viettel.

(Vật chứng đang được lưu giữ tại Chi Cục thi hành án dân sự huyện V, tỉnh Lạng Sơn theo Biên bản giao, nhận vật chứng ngày 10/7/2019).

4. Về án phí: Bị cáo Hoàng Văn H phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm để nộp vào Ngân sách Nhà nước.

5. Quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

159
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 50/2019/HS-ST ngày 06/08/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:50/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Văn Lãng - Lạng Sơn
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 06/08/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về