Bản án 50/2019/HSST ngày 03/05/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THUẬN CHÂU, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 50/2019/HSST NGÀY 03/05/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Ngày 03 tháng 5 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La. Xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 52/2019/HSST ngày 10 tháng 4 năm 2019, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 58/2019/QĐXXST-HS ngày 23 tháng 4 năm 2019 đối với bị cáo:

Lò Văn S; tên gọi khác: Không; sinh ngày: 26/6/1988 tại: Xã Bon Phặng, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La; nơi cư trú: Bản M, xã B P, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La; nghề nghiệp: Trồng trọt; trình độ văn hoá: 8/12; dân tộc: Thái; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt nam; Con ông: Lò Văn Đ, sinh năm: 1958 và bà Quàng Thị K, sinh năm: 1958; bị cáo có vợ là: Là Thị X, sinh năm: 1987 và có 03 con ( Lớn nhất 15 tuổi, nhỏ nhất 09 tuổi ); tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị bắt giam giữ từ ngày 08/01/2019 cho đến nay có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào hồi 17 giờ 00 phút ngày 08/01/2019, tại khu vực đường liên xã ( Bó Mười – Tông Cọ ), huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La, tổ công tác Công an xã Bó Mười, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La, phát hiện bắt quả tang đối tượng Lò Văn S (SN: 1988, trú tại: Bản M - B P - Thuận Châu - Sơn La) về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Vật chứng thu giữ gồm:

- 01 gói ni lon màu trắng bên trong có chứa chất bột màu trắng ( Theo đối tượng S khai nhận là Heroine );

- 01 chiếc xe máy nhãn hiệu HONDA, loại xe DREAM, BKS: 26F8 – 8187;

- 01 mũ bảo hiểm màu trắng đỏ, đã qua sử dụng.

Kết quả cân tịnh số bột cục màu trắng thu giữ của đối tượng S có khối lượng 0,10 gam, trích rút toàn bộ 0,10 gam đánh ký hiệu S1 làm mẫu vật gửi giám định

Tại bản Kết luận giám định số: 223/KLMT ngày 13/01/2019 của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La kết luận: Mẫu gửi giám định ký hiệu S1 là chất ma túy; loại chất Heroine; Tổng khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,10 gam. Tổng khối lượng ma túy thu giữ được là 0,10 gam loại Heroine ( Mẫu gửi giám định đã sử dụng hết trong quá trình giám định ).

Tại Cơ quan CSĐT Công an huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La, bị can Lò Văn S đã khai nhận như sau:

Khoảng 14 giờ 00 phút ngày 08/01//2019, Lò Văn S một mình điều khiển xe máy BKS: 26F8 – 8187 từ nhà mình ở bản M, xã B P, huyện Thuận Châu đến bản Thôm, xã Thôm Mòn, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La, để tìm mua ma túy về sử dụng cho bản thân. Khi đến bản Thôm, xã Thôm Mòn thì Số gặp và mua được của 01 người thanh niên dân tộc Thái không quen biết 01 gói ma túy được gói bằng ni lon màu trắng với giá 50.000đ ( Năm mươi nghìn đồng ). Sau khi mua được ma túy thì Số dấu vào trong mũ bảo hiểm rồi đội lên đầu điều khiển xe máy đi về hướng bản Nong Sa, xã Bó Mười, huyện Thuận Châu. Tuy nhiên khi Lò Văn S đi đến đoạn đường liên xã ( Bó Mười – Tông Cọ ), thì bị tổ công tác Công an xã Bó Mười, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La, phát hiện bắt quả tang cùng với vật chứng là gói ma túy như đã nêu ở trên.

Tại bản Cáo trạng số: 53/CT-VKS ngày 09/4/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La, đề nghị truy tố bị can Lò Văn S về tội: Tàng trữ trái phép chất ma tuý, theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự;

Tại phiên toà đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Thuận Châu, giữ quan điểm truy tố bị cáo Lò Văn S với tội danh và điều khoản luật áp dụng như trên.

Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249 – điểm s khoản 1 Điều 51 - Điều 38 Bộ luật hình sự;

- Tuyên bố bị cáo Lò Văn S phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma tuý và xử phạt bị cáo mức án từ 12 đến 18 tháng tù.

- Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền được quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự, đối với bị cáo.

Xử lý vật chứng:

Đề nghị áp dụng điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự; khoản 1, 2 Điều 47 Bộ luật hình sự;

- Tuyên tịch thu tiêu huỷ số chứng gồm: 01 phong bì thư niêm phong có viền xanh đỏ, ngoài ghi: Vật chứng nhập kho vụ Lò Văn S - Tàng trữ trái phép chất ma túy, bắt ngày 08/01/2019 + 01 mảnh ni lon màu trắng + 01 vỏ phong bì niêm phong vật chứng ban đầu và 01 mũ bảo hiểm.

- Tuyên tịch thu nộp ngân sách nhà nước vật chứng là 01 chiếc xe máy nhãn hiệu HONDA, loại xe DREAM, BKS: 26F8 – 8187.

Tại phiên tòa bị cáo Số có ý kiến: Thừa nhận do nghiện ma túy nên ngày 08/01/2019 đã đi mua ma túy về để sử dụng cho bản thân, bị phát hiện bắt quả tang tại đoạn đường liên xã ( Bó Mười – Tông Cọ ) cùng với 0,10 gam Heroin. Nay bị cáo đã biết tội, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.

[2] Về nội dung: Ngày 08/01/2019, bị cáo Lò Văn S ( Có căn cước lý lịch như trên ) đã bị bắt quả tang về hành vi Tàng trữ trái phép chất ma tuý ( 0,10 gam Heroine ) với mục đích sử dụng cho bản thân. Hội đồng xét xử xét thấy bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự để nhận thức được hành vi mua, tàng trữ trái phép chất ma túy là nguy hiểm cho xã hội, bị pháp luật nghiêm cấm nhưng vẫn cố ý thực hiện. Xét lời khai nhận của bị cáo phù hợp với vật chứng thu giữ, Kết luận giám định về ma túy và các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Trên cơ sở đó đã đủ căn cứ kết luận bị cáo Lò Văn S đã phạm vào tội: Tàng trữ trái phép chất ma tuý theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Như quan điểm truy tố và luận tội của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thuận Châu là có căn cứ, đúng pháp luật.

Tại Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 quy định:

“ 1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma tuý mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

c) Heroin, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA, hoặc XLR-11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;”.

[3] Xét tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội bởi; Hành vi bị cáo thực hiện đã xâm phạm đến lĩnh vực độc quyền thống nhất quyền quản lý nhà nước về các chất ma tuý. Cụ thể hành vi mua, tàng trữ trái phép chất ma tuý nhằm sử dụng cho bản thân trước là xâm hại đến chính sức khỏe của bị cáo, sau là hành vi tiếp tay cho loại tội phạm khác như mua bán, vận chuyển . . . trái phép chất ma tuý trong xã hội gia tăng, gây mất trật tự an ninh ở địa phương. Tội phạm bị cáo thực hiện thuộc trường hợp nghiêm trọng, do đó cần phải áp dụng một hình phạt nghiêm khắc, cách ly bị cáo ra ngoài xã hội một thời gian đủ mức trừng trị răn đe, giáo dục và cải tạo bị cáo thành người công dân có ích cho xã hội.

[4] Tình tiết tăng nặng: Không.

[5] Tình tiết giảm nhẹ: Xét quá trình điều tra, truy tố và xét xử bị cáo có thái độ khai báo thành khẩn, nên được áp dụng là một tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[6] Bị cáo đang bị tạm giam, cần tiếp tục giam giữ bị cáo trong hạn 45 ngày, kể từ ngày tuyên án theo quy định tại khoản 1, 3 Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự.

[7] Đối với hình phạt bổ sung được quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự. Căn cứ vào kết quả xác minh xác định bị cáo không có khả năng thi hành nên Hội đồng xét xử không áp dụng.

[8] Xử lý vật chứng:

- Đối với 0,10 gam Heroine sử dụng làm mẫu vật gửi giám định là chứng cứ chứng minh hành vi phạm tội của bị cáo. Tuy nhiên đã sử dụng hết trong quá trình giám định, do vậy tại phiên tòa không đặt ra vấn đề xử lý.

- Đối với vật chứng là chiếc xe máy gắn BKS: 26F8 – 8187, theo bị cáo khai do mua lại của một cửa hàng sắt vụn, không có giấy tờ. Kết quả điều tra xác định chiếc xe máy nêu trên gắn BKS của xe máy khác. Cụ thể BKS 26F8 – 8187 đã được

Công an huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La cấp cho chủ đăng ký xe là anh Quàng Văn Hùng, địa chỉ: Bản Pù, xã Chiềng Ngàm, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La, có số khung là: 008799 và số máy là: 02200768. Trong khi chiếc xe trong vụ án gắn BKS: 26F8 – 8187 lại có số khung là: X51006000125768 và số máy là: PF12007460 và tại địa chỉ: Bản Pù, xã Chiềng Ngàm, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La, hiện không có ai là Quàng Văn Hùng đang sinh sống. Xét thấy: Chiếc xe thuộc quyền sở hữu của bị cáo và bị cáo đã sử dụng làm phương tiện phạm tội, nên cần áp dụng các điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; Để tuyên tịch thu nộp ngân sách nhà nước. Đối với BKS: 26F8 – 8187 và 01 chiếc mũ bảo hiểm thì cần tuyên tịch thu tiêu hủy.

[9] Đối với nguồn gốc ma túy bị bắt giữ, theo bị cáo khai do mua của 01 người thanh niên dân tộc Thái không quen biết tại bản Thôm, xã Thôm Mòn, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La. Quá trình điều tra do bị cáo không cung cấp được tên, tuổi, địa chỉ và đặc điểm nhận dạng của đối tượng. Nên cơ quan Điều tra không có cơ sở, để điều tra làm rõ.

[10] Bị cáo thuộc hộ gia đình nghèo nên được miễn nộp án phí hình sự sơ thẩm, theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số: 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

[11] Bị cáo được quyền kháng cáo bản án, theo quy định tại các Điều 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự;

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh và hình phạt:

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249 - điểm s khoản 1 Điều 51 - Điều 38 Bộ luật hình sự;

- Tuyên bố bị cáo Lò Văn S phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma tuý.

- Xử phạt bị cáo Lò Văn S 12 ( Mười hai ) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt được tính từ ngày 08/01/2019 (Ngày bắt giữ bị cáo ).

Áp dụng khoản 1, 3 Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự;

* Tiếp tục tạm giam bị cáo trong hạn 45 ( Bốn mươi lăm ) ngày, kể từ ngày tuyên án, để đảm bảo biện pháp thi hành án phạt tù.

2. Xử lý vật chứng:

Áp dụng điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự;

- Tuyên tịch thu tiêu huỷ:

+ 01 phong bì thư niêm phong có viền xanh đỏ, ngoài ghi: Vật chứng nhập kho vụ Lò Văn S - Tàng trữ trái phép chất ma túy, bắt ngày 08/01/2019 + 01 mảnh ni lon màu trắng + 01 vỏ phong bì niêm phong vật chứng ban đầu;

+ 01 mũ bảo hiểm màu đỏ trắng đã qua sử dụng;

+ 01 BKS ( xe máy ) 26F8 – 8187.

- Tuyên tịch thu nộp ngân sách nhà nước: 01 chiếc xe máy, nhãn hiệu HONDA, loại xe DREAM, màu sơn trắng nâu, số khung: X51006000125768, số máy: PF12007460, xe đã qua sử dụng cũ.

3. Án phí:

Áp dụng điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số: 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

- Miễn cho cáo không phải nộp án án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo:

Áp dụng các Điều 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự;

Báo cho bị cáo biết quyền được kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

180
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 50/2019/HSST ngày 03/05/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

Số hiệu:50/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thuận Châu - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 03/05/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về