Bản án 50/2018/HS-ST ngày 21/06/2018 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN QUỲNH PHỤ, TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 50/2018/HS-ST NGÀY 21/06/2018 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Hôm nay ngày 21 tháng 6 năm 2018. Tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 42/2018/TLST-HS ngày 23/5/2018; Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 50/2018/QĐXXST-HS ngày 08/6/2018 đối với bị cáo:

Phạm Quang A, sinh ngày 04/9/1990. Đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở hiện nay: Thôn H, xã Q, huyện Q, tỉnh Thái Bình; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn Giáo: Không; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 09/12; Con ông Phạm Quang T, sinh năm 1962 và bà Nguyễn Thị T1, sinh năm 1963; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 23/3/2018, chuyển tạm giam ngày 26/3/2018 đến nay, hiện đang bị tạm giam tại nhà tạm giữ Công an huyện Quỳnh Phụ, trích xuất có mặt tại phiên tòa.

* Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:

- Anh Lê Văn Th, sinh năm 1999 (vắng mặt) 

ĐKNKTT: Thôn L, xã Q, huyện Q, tỉnh Thái Bình

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Sáng ngày 23/3/2018 bị cáo đi xe khách từ huyện Q sang khu vực đường tàu thuộc quận L, thành phố Hải Phòng để mua ma túy, tại đây bị cáo đa mua 02 gói ma túy với giá 300.000 đồng của người đàn ông không biết tên, địa chỉ, sau khi mua được ma túy bị cáo mang về nhà và lấy 01 gói ma túy chia ra thành hai phần, một phần bị cáo dùng để hít, phần còn lại bị cáo gói vào để ở đầu giường, còn 01 gói bị cáo bỏ vào túi quần đang mặc trên người. Đến khoảng 14 giờ 30 phút cùng ngày khi bị cáo đang đi bộ ở thôn H, xã Q thì gặp Lê Văn Th, sinh năm 1999 ở thôn L, xã Q, huyện Q hỏi bị cáo có ma túy bán không, để cho Th 01 gói 200.000 đồng, bị cáo đồng ý và nhận của Th tờ tiền mệnh giá 500.000 đồng rồi bỏ vào túi quần và lấy từ túi quần bên phải đưa cho Th 01 gói ma túy, sau đó bị cáo đang rút tiền trả lại cho Th thì bị Công an huyện Quỳnh Phụ bắt quả tang. Công an đã đưa bị cáo và Th về trụ sở Ủy ban nhân dân xã Q để làm việc, kiểm tra người Th đã phát hiện và thu giữ tại túi quần bên phải phía trước 01 gói nhỏ nghi là ma túy có đặc điểm: bên ngoài gói bằng giấy tráng kim màu trắng, bên trong chứa chất bột màu trắng dạng cục, Th khai đây là ma túy vừa mua của Phạm Quang A với giá 200.000 đồng, kiểm tra người bị cáo đã phát hiện và thu giữ số tiền 800.000 đồng (gồm 01 tờ tiền mệnh giá 500.000 đồng, 01 tờ tiền mệnh giá 200.000 đồng, 01 tờ tiền mệnh giá 100.000 đồng. Công an đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và niêm phong vật chứng thu giữ của Th (ký hiệu M1).

Khám xét khẩn cấp nơi ở của Phạm Quang A ở thôn H, xã Q, huyện Quỳnh Phụ đã phát hiện và thu giữ tại đầu giường phòng ngủ của bị cáo 01 gói ma túy có đặc điểm: bên ngoài gói bằng giấy trắng có dòng kẻ, bên trong chứa chất bột màu trắng dạng cục, bị cáo khai đây là ma túy, mục đích để bán kiếm lời, Công an đã quản lý và niêm phong vật chứng (ký hiệu M2)

Bản kết luận giám định số: 101/KLGĐ ngày 23/3/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình kết luận:“M1 gửi giám định là ma túy, loại hêrôin, khối lượng 0,0255 gam; M2 gửi giám định là ma túy, loại hêrôin, khối lượng 0,1048” Bản cáo trạng số: 49/CT-VKSQP ngày 23 tháng 5 năm 2018, Viện kiểm sát nhân dân huyện Quỳnh Phụ đã truy tố Phạm Quang A về tội “Mua bán trái phép chất ma tuý” theo khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự 2015.

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo như tại bản Cáo trạng. Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bị cáo phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Áp dụng khoản 1 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51; điều 38; điều 50 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017; xử phạt bị cáo Phạm Quang A mức án từ 02 (hai) năm đến 02 (năm) 06 (sáu) tháng tù, phạt tiền bị cáo từ 05 (năm) triệu đồng đến 07 (bảy) triệu đồng sung quỹ Nhà nước, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử, xử lý vật chứng và án phí theo quy định của pháp luật.

Lời nói sau cùng: Bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác,

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

 [1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Quỳnh Phụ, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Quỳnh Phụ, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

 [2] Trước phiên tòa hôm nay cũng như tại cơ quan điều tra, bị cáo Phạm Quang A đều khai nhận: Sáng ngày 23/3/2018, sau khi mua được hai gói ma túy ở thành phố Hải Phòng, bị cáo mang về nhà và lấy 01 gói ma túy chia ra thành hai phần, một phần bị cáo dùng để hít, phần còn lại bị cáo gói vào để ở đầu giường, còn 01 gói bị cáo bỏ vào túi quần đang mặc trên người. Đến khoảng 14 giờ 30 phút cùng ngày khi gặp Lê Văn Th, sinh năm 1999 ở thôn L, xã Q, huyện Q, bị cáo đã bán cho Th 01 gói ma túy với giá 200.000 đồng thì bị Công an huyện Quỳnh Phụ phát hiện bắt quả tang, thu giữ toàn bộ vật chứng. Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan Anh Lê Văn Th (bút lục: 55-57), lời khai của người làm chứng ông Phạm Văn Nh, ông Nguyễn Duy Ch (bút lục: 63, 64, 66, 67). Ngoài ra còn được chứng minh bằng Biên bản bắt người phạm tội quả tang (bút lục số: 01-04); Biên bản niêm phong vật chứng (bút lục số: 06, 07); Bản kết luận giám định 101/KLGĐ - PC54 ngày 23/3/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình (bút lục số:

11). Như vậy có đầy đủ căn cứ kết luận hành vi của bị cáo đã phạm vào tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự 2015.

Điều 251 BLHS: Tội mua bán trái phép chất ma túy.

"1. Người nào mua bán trái phép chất ma túy thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.

……………

5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản

 [3] Đánh giá tính chất, mức độ, hậu quả vụ án cùng các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ thấy rằng: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, ma túy là nguồn gốc phát sinh các loại tội phạm nguy hiểm, phá vỡ hạnh phúc nhiều gia đình, kìm hãm sự phát triển kinh tế, vì vậy pháp luật Nhà nước ta đã có những chế tài nghiêm khắc dành cho loại tội phạm này nhằm hạn chế và tiến tới xóa bỏ loại tội phạm này khỏi đời sống xã hội. Bị cáo biết rõ tác hại của ma túy nhưng vẫn cố tình phạm tội, sau khi mua được ma túy ở thành phố Hải Phòng, bị cáo đã mang về nhà cất giấu mục đích để bán kiếm lời, sau khi Lê Văn Th hỏi mua ma túy bị cáo đã đồng ý bán cho Th 01 gói ma túy với giá 200.000 đồng thì bị bắt quả tang, khám xét nơi ở của bị cáo còn thu giữ 01 gói ma túy chưa kịp mang đi tiêu thụ. Do vậy cần phải có hình phạt nghiêm khắc cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội thời gian nhất định mới có tác dụng cải tạo bị cáo nói riêng cũng như phòng chống tội phạm nói chung. Tuy nhiên cũng xét bị cáo sau khi phạm tội khai báo thành khẩn. Do đó cần áp dụng điểm s khoản 1 điều 51 Bộ luật hình sự 2015, giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt là thể hiện tính nhân đạo của pháp luật.

[4] Bị cáo bán ma túy để kiếm lời, do vậy cần phạt bị cáo một khoản tiền nhất định là phù hợp với quy định tại khoản 5 điều 251 Bộ luật hình sự 2015.

[5] Đối với Lê Văn Th đã có hành vi mua trái phép ma túy của bị cáo, mục đích Th mua để sử dụng, khối lượng chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự. Công an đã ra Quyết định xử phạt hành chính là phù hợp với pháp luật.

 [6] Về nguồn gốc số ma túy: Bị cáo khai mua của một người đàn ông, không biết tên và địa chỉ ở khu vực đường tàu, quận L, thành phố Hải Phòng. Quá trình điều tra không xác định được người đàn ông này, nên Cơ quan điều tra không có căn cứ để điều tra, xử lý người bán ma túy cho bị cáo.

  [7] Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a khoản 2 điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự 2015: Cần tịch thu tiêu hủy toàn bộ số ma túy đựng trong phong bì niêm phong hoàn trả mẫu vật sau giám định số: 101/KLGĐ-PC54 của Phòng kỹ thuật hình sự công an tỉnh Thái Bình.

Công an đã thu giữ của bị cáo số tiền 800.000 đồng, trong đó có 200.000 đồng do bán ma túy cho Th mà có, còn lại của Th 300.000 đồng, của bị cáo 300.000 đồng. Cần tịch thu sung quỹ Nhà nước số tiền 200.000 đồng thu của bị cáo do phạm tội mà có, số tiền còn lại của bị cáo là 300.000 đồng, của Th 300.000 đồng không liên quan đến hành vi phạm tội nên trả lại cho bị cáo và Th.

Về án phí: Bị cáo phải chịu tiền án phí hình sự sơ thẩm

Bị cáo, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1.Tuyên bố bị cáo Phạm Quang A phạm tội “Mua bán trái phép chất ma tuý”

Áp dụng khoản 1 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51; điều 38; điều 50; của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017. Xử phạt Phạm Quang A : 02 (hai) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ 23/3/2018.

Áp dụng khoản 5 điều 251 Bộ luật hình sự 2015: Phạt bổ sung Phạm Quang A 5.000.000 đồng (năm triệu đồng) sung quỹ Nhà nước.

2. Xử lý vật chứng: Áp dụng điểm b khoản 1 điều 46 Bộ luật hình sự 2015; điểm a khoản 2, điểm a khoản 3 điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự 2015:

- Tịch thu tiêu hủy toàn bộ số ma túy đựng trong 02 phong bì niêm phong hoàn trả mẫu vật sau giám định số: 101/KLGĐ-PC54 của Phòng kỹ thuật hình sự công an tỉnh Thái Bình.

- Tịch thu sung quỹ Nhà nước số tiền 200.000 đồng của bị cáo Phạm Quang A do phạm tội mà có

- Trả lại bị cáo Phạm Quang A số tiền: 300.000 đồng, trả lại cho Lê Văn Th, sinh năm 1999 ở Thôn L, xã Q, huyện Q, tỉnh Thái Bình số tiền 300.000 đồng.

 (Chi tiết như tại biên bản giao nhận vật chứng ngày 23/5/2018 – BL: 84)

3. Về án phí: Áp dụng khoản 2 điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự 2015; khoản 1 điều 21; điểm a khoản 1 điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Bị cáo Phạm Quang A phải nộp 200.000đ tiền án phí hình sự sơ thẩm

Án xử công khai sơ thẩm, có mặt bị cáo, báo cho biết có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, vắng mặt người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, báo cho biết có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày tính từ ngày nhận tống đạt bản án hoặc bản án được niêm yết tại chính quyền địa phương.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

204
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 50/2018/HS-ST ngày 21/06/2018 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:50/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Quỳnh Phụ - Thái Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/06/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về