Bản án 50/2018/HNGĐ-ST ngày 14/05/2018 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN QUẢNG TRẠCH, TỈNH QUẢNG BÌNH

BẢN ÁN 50/2018/HNGĐ-ST NGÀY 14/05/2018 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON

Ngày 14 tháng 5 năm 201 8 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Quảng Trạch xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 82/2017/TLST-H N G Đ ngày19 tháng 10 năm 2017 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 08/2018/QĐXX-ST ngày 09 tháng 4 năm 201 8 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Phạm Thị L, sinh năm 1985. Địa chỉ: Thôn T, xã Q,huyện Q, tỉnh Bình Thuận. Có mặt.

2. Bị đơn: Anh Phan Đình L, sinh năm 1977. Địa chỉ: Thôn T, xã Q, huyện Q,tỉnh Bình Thuận. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ngày 16/10/2017, bản tự khai và tại phiên toà, nguyên đơn chị Phạm Thị L trình bày: Chị và anh Phan Đình L có quá trình tìm hiểu và kết hôn trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện, đã đăng ký kết hôn tại UBND xã Q, huyện Q, tỉnh Quảng Bình vào ngày 28/02/2003. Sau khi kết hôn vợ chồng sống chung hòa thuận, hạnh phúc, đến cuối năm 2004 thì bắt đầu phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do anh L thường xuyên uống rượu, say xỉn sau đó có những lời nói xúc phạm và đánh đập chị. Mâu thuẫn giữa hai vợ chồng kéo dài đến năm 2012, chị L đi xuất khẩu lao động làm ăn và đến đầu năm 2017, chị L đã quay trở về quê ở xã Q, huyện Q, tỉnh Quảng Bình làm ăn sinh sống. Hiện nay chị L thấy mâu thuẫn vợ chồng đã quá căng thẳng, thời gian vợ chồng sống ly thân đã lâu, tình cảm vợ chồng không còn nên mong muốn được ly hôn với anh L. Tại phiên tòa chị L vẫn giữ nguyên yêu cầu đề nghị Tòa án giải quyết cho anh được ly hôn anh L để sớm ổn định cuộc sống.

Về quan hệ con chung: Chị L trình bày quá trình chung sống vợ chồng có hai con chung tên là Phan Thị L, sinh ngày 06/01/2003 và Phan Tùng L, sinh ngày 18/02/2008. Sau khi ly hôn chị L có nguyện vọng mong muốn được nuôi dưỡng, chăm sóc cháu Phan Tùng L và giao cháu Phan Thị L cho anh Phan Đình L trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng.

Về tài sản chung và nợ chung: Chị L trình bày quá trình chung sống vợ chồng không có tài sản chung, không vay nợ ai và cũng không cho ai vay nợ của vợ chồng.

Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tiến hành tống đạt văn bản tố tụng, thông báo thụ lý vụ án, gửi giấy triệu tập, thông báo phiên họp và hòa giải nhiều lần cho anh L nhưng anh L không đến Tòa án để giải quyết vụ án. Tòa án đã tiến hành xác minh, thu thập chứng cứ tại Ủy ban nhân dân xã Quảng L và gia đình của anh L kết quả cho thấy: sau khi nhận được các văn bản tố tụng từ Tòa án thì chính quyền địa phương đã cử cán bộ liên lạc giao đầy đủ cho phía gia đình anh L.

Theo lời trình bày bà Nguyễn Thị T là mẹ đẻ của anh Phan Đình L, khi nhận được các văn bản tố tụng do Tòa án gửi đến bà đã trực tiếp báo cho con trai là anh Phan Đình L biết việc chị L xin ly hôn anh tại Tòa án nhân dân huyện Quảng Trạch nhưng do điều kiện công việc nên anh không thể đến Tòa án để giải quyết vụ án được. Bà T cho biết, vợ chồng chị L và anh L kết hôn vào năm 2003, sau đó về ở tại nhà ông bà không được bao lâu thì xảy ra mâu thuẫn. Đến năm 2012 chị L đi xuất khẩu lao động đến năm 2017 mới trở về. Quá trình chung sống hai vợ chồng anh L thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, to tiếng với nhau. Nguyên nhân là do hai vợ chồng không bên nào chịu nhường nhịn bên nào. Quá trình chung sống hai vợ chồng có hai người con tên là Phan Thị L, sinh ngày 06/01/2003 và Phan Tùng L,

sinh ngày 18/02/2008.Hai vợ chồng anh L không có tài sản gì. Việc xin ly hôn là do chị L quyết định và đề nghị Tòa án căn cứ quy định của pháp luật để giải quyết, gia đình không có ý kiến gì.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Quảng Trạch phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán cũng như của Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và những người tham gia tố tụng kể từ khi thụ lý vụ án cho đến quá trình xét xử đều thực hiện đúng các quy định tại Điều 48, 51, 70, 71, 72, 234 của Bộ luật tố tụng dân sự. Viện kiểm sát nhân dân huyện Quảng Trạch không có kiến nghị đối với vụ án này. Về nội dung vụ án: áp dụng Điều 227 và Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự xét xử vụ án vắng mặt anh Phan Đình L.Về quan hệ tình cảm: áp dụng Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình xử cho chị L được ly hôn với  anh L.Về quan hệ con chung: Giao con chung Phan Tùng L, sinh ngày 18/02/2008 cho chị Phạm Thị L trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng và giao con chung

Phan Thị L, sinh ngày 06/01/2003 cho anh Phan Đình L trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng. Không ai phải đóng góp tiền cấp dưỡng nuôi con cho ai. Về tài sản và công nợ chung: không xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, căn cứ vào kết quả hỏi tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ tình cảm: Chị L và anh L đi đến hôn nhân trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại UBND xã Q, huyện Quảng trạch, tỉnh Quảng Bình vào ngày 28/02/2003 vì vậy quan hệ hôn nhân hoàn toàn hợp pháp. Sau khi kết hôn, vợ chồng chị L và anh L chung sống hạnh phúc một thời gian, tuy nhiên trong thực tế đã xảy ra mâu thuẫn, vợ chồng anh chị  đã ly thân từ tháng năm 2012 đến nay. Chị L trình bày không còn tình cảm với anh L và mong muốn xin được ly hôn để sớm ổn định cuộc sống của bản thân. Xét thấy, mâu thuẫn giữa chị L và anh L đã trầm trọng, đời sống chung không tồn tại, mục đích của hôn nhân không đạt được nên Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự và Điều 56 của Luật Hôn nhân và Gia đình chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị L, xét xử cho chị L được ly hôn với anh L.

Tòa án đã tiến hành đưa vụ án ra xét xử theo quy định của pháp luật, tiến hành mở phiên tòa xét xử vụ án vào ngày 26/4/2018, do anh Phan Đình L vắng mặt lần thứ nhất nên đã hoãn phiên tòa. Tại phiên tòa hôm nay anh L tiếp tục vắng mặt. Vì vậy, HĐXX căn cứ Điều 227 và Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự, xét xử vụ án vắng mặt anh Phan Đình L.

[2] Về quan hệ con chung: Vợ chồng chị Phạm Thị L và anh Phan Đình Lcó hai con chung là Phan Thị L, sinh ngày 06/01/2003 và Phan Tùng L, sinh ngày 18/02/2008. Xét thấy, quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, chị L có nguyện vọng mong muốn được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cháu Phan Tùng L và cháu L có đơn trình bày cũng như tại phiên tòa cháu L có nguyện vọng được ở với mẹ. Cháu L cũng có đơn trình bày nguyện vọng xin được ở với bố vì vậy giao cháu Phan Thị L cho anh Phan Đình L trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng là hoàn toàn phù hợp với quy định tại khoản 2 Điều 82 Luật Hôn nhân và Gia đình.

[3] Về quan hệ tài sản chung: Quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa chị L khai nhận, giữa chị và anh Phan Đình L không có tài sản chung, không vay nợ của ai cũng như không cho ai vay nợ của vợ chồng, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[4] Về án phí: Chị Phạm Thị L phải nộp tiền án phí ly hôn theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng:

- Điều 227 và Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự;

- Điều 56 của Luật Hôn nhân và Gia đình;

- Các Điều 58, Khoản 2 Điều 81, Điều 82,  Điều 83 của Luật Hôn nhân và Gia đình; Khoản 4 Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự và Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án

Tuyên xử:

1. Xét xử vắng mặt anh Phan Đình L

2. Về quan hệ tình cảm:Cho ly hôn giữa chị Phạm Thị L và anh Phan Đình L

3.Về quan hệ con chung: Giao con chung Phan Tùng L, sinh ngày 18/02/2008 cho chị Phạm Thị L trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng và giao con chung Phan Thị L, sinh ngày 06/01/2003 cho anh Phan Đình L trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng. Không ai phải đóng góp tiền cấp dưỡng nuôi con cho ai.

4.Về án phí: Buộc chị Phạm Thị L phải nộp 300.000 đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm để sung công quỹ nhà nước, được trừ vào khoản tiền tạm ứng án phí đãnộp 300.000 đồng tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Quảng Trạch theo biên lai số 0002196 ngày 18/10/2017. Chị L đã nộp đủ tiền án phí ly hôn.

Án xử sơ thẩm công khai, báo cho nguyên đơn có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Bị đơn vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày Tòa án niêm yết bản án tại trụ sở UBND xã Q, huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

221
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 50/2018/HNGĐ-ST ngày 14/05/2018 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

Số hiệu:50/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Quảng Trạch - Quảng Bình
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 14/05/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về