Bản án 50/2017/HSST ngày 30/05/2017 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ SƠN TÂY - HÀ NỘI

BẢN ÁN 50/2017/HSST NGÀY 30/05/2017 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Trong ngày 30 tháng 5 năm 2017, tại trụ sở Tòa án nhân dân TX Sơn Tây, TP Hà Nội, mở phiên tòa công khai xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 41/2017/HSST ngày 19 tháng 4 năm 2017 đối với các bị cáo:

1/ Lê Duy Q, sinh năm 1984; ĐKNKTT: Số 21 P, phường N, Thị xã S; Trình độ văn hóa: 8/12; Nghề nghiệp: không; Con ông Lê Duy M (đã chết) và bà Man Thị N, sinh năm 1963; Vợ, Con: không; Tiền sự: không. Tiền án: Ngày 15/4/2015 Tòa án nhân dân Thị xã S xử 18 tháng tù về tội trộm cắp tài sản. Nhân thân: Ngày 28/4/2004 TAND TX S xử 30 tháng tù về tội trộm cắp tài sản và tàng trữ trái phép chất ma túy; Ngày 09/3/2006 TAND TX S xử 15 tháng tù về tội trộm cắp tài sản; Ngày 14/01/2008 TAND TX S xử 30 tháng tù về tội trộm cắp tài sản. Bị bắt từ ngày 03/2/2017, hiện đang tạm giam tại trại giam số 1 Công an TP Hà Nội. Có mặt.

2/ Vũ Văn H, sinh ngày 17/4/1998; ĐKNKTT: Thôn 8 xã N, huyện L, Tỉnh B; Trình độ văn hóa: 8/12; Nghề nghiệp: không; Con ông Vũ Văn L, sinh năm 1968 và bà Bùi Thị T (đã chết); Vợ, con: không. Tiền sự: Ngày 24/01/2017, TAND quận H ra quyết định đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, thời hạn 24 tháng. Tiền án: không. Hiện đang cai nghiện bắt buộc tại trung tâm chữa bệnh lao động giáo dục xã hội số 1 Hà Nội. Có mặt.

Người bị hại: Anh Phạm Ngọc K, sinh năm 1980; Địa chỉ: Tổ dân phố 5 phường T, TX S, TP H. Vắng mặt.

NHẬN THẤY

Bị cáo Lê Duy Q và Vũ Văn H bị VKSND Thị xã Sơn Tây truy tố về hành vi phạm tội như sau:

Khoảng 02 giờ sáng 30/11/2016, H chở Q theo quốc lộ 21A, đi vào ngõ nhà nghỉ Kiên Thảo ở tổ 5 phường T, Thị xã S, thấy cửa nhà nghỉ không khóa, bên trong gara có 02 chiếc xe máy nên Q bảo H ra đầu ngõ cảnh giới, còn Q mở cửa nhà nghỉ đến vị trí để xe. Quân thấy chiếc xe môtô nhãn hiệu Piaggio, BKS 29U1-244.30 sơn mầu xanh có giá trị nên dùng vam phá khóa mang theo cắm vào ổ khóa điện phá được khóa nhưng không nổ được máy, Quân dắt xe ra ngoài ngồi lên xe và bảo H đẩy phía sau theo hướng quốc lộ 21A về phía xã S. Đến khu vực Đ, huyện T, Q dắt xe vào cửa hàng sửa chữa xe của ông K nhưng không sửa được. Cả hai tiếp tục đẩy xe đến khu vực N, huyện P, Q tháo BKS vứt xuống hồ nước gần đó rồi mang xe đến cửa hàng sửa xe của anh N nhưng cũng không sửa được ổ khóa điện. Cả hai tiếp tục đẩy xe xuống nội thành H thì H nói đi có việc và không quay lại nữa. Ngày 24/02/2017, H được đưa vào trung tâm cai nghiện thời hạn 24 tháng. Do không tiêu thụ được tài sản, ngày 06/12/2016, Q mang xe về dựng trước cửa nhà nghỉ Kiên Thảo trả, tối cùng ngày Q đến gặp anh K thú nhận việc đã lấy trộm xe và xin lỗi anh K. Ngày 03/2/2017, Q đến Công an đầu thú và khai nhận hành vi phạm tội.

Ngày 09/12/2016, Hội đồng định giá đã định giá chiếc xe máy Q và H trộm cắp trị giá 60.000.000đ.

Ngày 06/01/2017, Công an Thị xã Sơn Tây đã trao trả chiếc xe máy Piaggio cho anh Phạm Ngọc K. Anh K đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu về bồi thường dân sự.

Công an Thị xã Sơn Tây đã tiến hành truy tìm vật chứng là chiếc biển kiểm sát và chiếc vam phá khóa nhưng không thu hồi được.

Chiếc xe môtô H dùng để chở Q đi trộm cắp ngày 30/11/2016 là của H, nhưng sau khi cùng Q đi trộm cắp H đã bán cho một người không quen biết nên cơ quan Công an không thu hồi được.

Tại bản cáo trạng số 47/CT-VKS ngày 17/4/2017 của VKSND Thị xã Sơn Tây đã truy tố bị cáo Lê Duy Q và Vũ Văn H về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 2 điều 138 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát đề nghị xử phạt bị cáo Q từ 30 đến 36 tháng tù, bị cáo H từ 24 đến 30 tháng tù.

Căn cứ các tài liệu chứng cứ đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo, người bị hại

XÉT THẤY

Tại phiên tòa các bị cáo đã khai nhận: Khoảng 02 giờ sáng ngày 30/11/2016, Q và H đã vào nhà nghỉ K ở tổ 5 phường T, trộm cắp chiếc xe môtô nhãn hiệu Piaggio trị giá 60.000.000đ. Lời khai của các bị cáo phù hợp với lời khai của người bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, kết luận điều tra và các chứng cứ, tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Các bị cáo đều có đủ năng lực trách nhiệm hình sự nên có đủ cơ sở kết luận: Lê Duy Q và Vũ Văn H phạm tội “Trộm cắp tài sản”, tội danh và hình phạt được quy định tại khoản 2 Điều 138 BLHS.

Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm trực tiếp đến quyền sở hữu tài sản được pháp luật bảo vệ gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trị an xã hội. Đây là vụ án đồng phạm giản đơn, cần quyết định hình phạt trên cơ sở xem xét hành vi, vai trò, nhân thân của mỗi bị cáo.

Bị cáo Q là người trực tiếp thực hiện tội phạm, có nhân thân xấu, có 01 tiền án về tội Trộm cắp tài sản nhưng không lấy đó làm bài học nay lại tái phạm. Đây là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo điểm g khoản 1 Điều 48 BLHS. Do đó cần có hình phạt nghiêm khắc bắt cách ly khỏi xã hội một thời gian để giáo dục bị cáo. Tuy nhiên, xét bị cáo đã tự đem xe đến trả lại cho người bị hại, tự đến cơ quan công an đầu thú, thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, nên xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo theo điểm b, p khoản 1 và khoản 2 Điều 46 BLHS.

Bị cáo H có nhiệm vụ cảnh giới, là đồng phạm với vai trò giúp sức nên cần có hình phạt đủ nghiêm khắc để giáo dục bị cáo. Tuy nhiên, tại thời điểm phạm tội bị cáo có nhân thân tốt, tài sản bị cáo chiếm đoạt đã được trả lại cho người bị hại, thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo theo điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46 BLHS.

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo.

CATX Sơn Tây đã Công an Thị xã Sơn Tây đã trao trả chiếc xe máy Piaggio cho anh K là đúng quy định của pháp luật.

Về trách nhiệm dân sự: Anh K không có yêu cầu gì về dân sự nên HĐXX không xem xét.

Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Lê Duy Q và Vũ Văn H phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng khoản 2 Điều 138; điểm b, p khoản 1 và khoản 2 Điều 46; điểm g khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự:

Xử phạt bị cáo Lê Duy Q 30 (Ba mươi) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ, tạm giam 03/2/2017.

Áp dụng khoản 2 Điều 138; điểm p khoản 1 và khoản 2 Điều 46:

Xử phạt bị cáo Vũ Văn H 24 (Hai mươi tư) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị bắt thi hành án.

Áp dụng Điều 99 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 về án phí và lệ phí tòa án:

Lê Duy Q và Vũ Văn H mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Áp dụng Điều 231, Điều 234 Bộ luật tố tụng hình sự

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản sao bản án hoặc niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

264
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 50/2017/HSST ngày 30/05/2017 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:50/2017/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Sơn Tây - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/05/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về