TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ NAM ĐỊNH - TỈNH NAM ĐỊNH
BẢN ÁN 501/2019/HNGĐ-ST NGÀY 12/09/2019 VỀ LY HÔN GIỮA CHỊ NGUYỄN THỊ VIỆT A VÀ ANH LÊ VĂN C
Ngày 12 tháng 9 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Nam Định xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 330/2019/TLST-HNGĐ ngày 20 tháng 6 năm 2019 về tranh chấp “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 36/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 15 tháng 8 năm 2019 giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Việt A, sinh năm 1977; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Số xx, phường T, thành phố N, tỉnh Nam Định; nơi cư trú: Số xx, phường V, quận H, thành phố Hà Nội; có mặt.
Bị đơn: Anh Lê Văn C, sinh năm 1971; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Số xx, phường T, thành phố N, tỉnh Nam Định; hiện đang chấp hành án tại: Đội xx, phân trại số xx, trại giam số xx, xã H, huyện T, tỉnh Nghệ An; vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Tại đơn khởi kiện nộp ngày 20-6-2019, bản tự khai ngày 27-6-2019 và tại phiên tòa, nguyên đơn là chị Nguyễn Thị Việt A trình bày:
- Về quan hệ hôn nhân: Chị và anh Lê Văn C có tổ chức lễ cưới và đã đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân phường B - thành phố N vào ngày 22-5-1996 trên cơ sở tự nguyện. Vợ chồng chung sống hòa thuận, hạnh phúc đến năm 2005 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do tính cách vợ chồng không hợp nhau, anh Hà không tu chí làm ăn nên vợ chồng chị thường xuyên xảy ra xích mích, cãi cọ. Vợ chồng chị đã nhiều lần nói chuyện với nhau và gia đình hai bên đã khuyên nhủ nhưng anh Hà không thay đổi dẫn đến mâu thuẫn của vợ chồng chị ngày càng trầm trọng nên vợ chồng chị đã sống ly thân từ năm 2005 đến nay. Từ tháng 10-2012 anh Hà phải đi chấp hành án phạt tù tại Trại giam số 6. Nay chị xác định tình cảm vợ chồng không còn, mâu thuẫn vợ chồng không thể hàn gắn, đời sống chung không thể kéo dài. Chị đề nghị Toà án giải quyết cho vợ chồng ly hôn.
- Về nuôi con chung: Vợ chồng chị có 01 con chung là cháu Lê Thế T, sinh ngày 25-01-1997. Cháu T đã đủ 18 tuổi, có công việc ổn định, có đủ khả năng lao động và tự lập nên chị không đề nghị Tòa án giải quyết về nuôi con chung.
- Về chia tài sản chung: Chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Tại bản tự khai ngày 12-4-2019, bị đơn là anh Lê Văn C trình bày:
- Về quan hệ hôn nhân: Anh thừa nhận về thời gian, điều kiện, hoàn cảnh kết hôn như chị A trình bày. Về nguyên nhân mâu thuẫn anh cho rằng vợ chồng anh xảy ra mâu thuẫn từ năm 2010 do tính cách vợ chồng không hợp nhau và đã sống ly thân từ thời gian đó đến nay. Anh đồng ý ly hôn với chị A.
- Về nuôi con chung: Anh thống nhất như lời trình bày của anh A.
- Về chia tài sản chung: Anh không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Kiểm sát viên phát biểu ý kiến:
- Về việc tuân theo pháp luật của thẩm phán, hội đồng xét xử, thư ký phiên toà trong quá trình giải quyết vụ án từ khi thụ lý vụ án đến trước thời điểm hội đồng xét xử nghị án: Đã tuân theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng Dân sự.
- Việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng: Từ khi thụ lý vụ án và tại phiên tòa, chị A và anh Hà đã thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của mình.
- Ý kiến về việc giải quyết vụ án: Có đủ cơ sở chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị A. Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014: Xử ly hôn giữa chị Nguyễn Thị Việt A và anh Lê Văn C. Về con chung của chị A và anh Hà đã đủ trên 18 tuổi nên không đặt ra giải quyết. Về tài sản chung: Không có yêu cầu nên không đặt ra giải quyết.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được xem xét tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên toà, Tòa án nhân dân thành phố Nam Định nhận định:
[1]. Về thủ tục tố tụng:
Bị đơn là anh Lê Văn C đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt, căn cứ khoản 1 Điều 228 của Bộ luật tố tụng Dân sự, Hội đồng xét xử xử vắng mặt anh Lê Văn C.
[2]. Về quan hệ hôn nhân:
Hôn nhân giữa chị Nguyễn Thị Việt A và anh Lê Văn C là hôn nhân hợp pháp. Sau một thời gian chung sống, chị A và anh H xảy ra mâu thuẫn do tính cách vợ chồng không hợp nhau, bất đồng quan điểm trong cuộc sống và đã sống ly thân từ năm 2010. Từ tháng 10 năm 2012, anh H phải chấp hành án tại Trại giam Số 6 - Bộ Công an. Hiện tại, chị A có quan điểm xin ly hôn và anh Hà cũng chấp nhận ly hôn theo yêu cầu của chị A, Hội đồng xét xử thấy rằng tình trạng hôn nhân giữa chị A và anh Hà đã lâm vào tình trạng trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được nên có căn cứ chấp nhận yêu cầu của chị A, xử cho chị A và anh Hà ly hôn theo quy định tại Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình.
[3]. Về nuôi con chung:
Chị Nguyễn Thị Việt A và anh Lê Văn C không yêu cầu Tòa án giải quyết.
[4]. Về chia tài sản:
Chị Nguyễn Thị Việt A và anh Lê Văn C không yêu cầu Tòa án giải quyết.
[5]. Về án phí dân sự sơ thẩm:
Chị Nguyễn Thị Việt A là nguyên đơn trong vụ án nên phải nộp toàn bộ án phí theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
- Căn cứ vào Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình 2014;
- Căn cứ vào Khoản 1 Điều 228; Khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng Dân sự;
- Căn cứ vào Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30-12-2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
1. Xử ly hôn giữa chị Nguyễn Thị Việt A và anh Lê Văn C.
2. Án phí dân sự sơ thẩm: Chị Nguyễn Thị Việt A phải nộp 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng). Số tiền này được trừ vào tiền tạm ứng án phí chị A đã nộp tại biên lai số 0002328 ngày 20-6-2019 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Nam Định.
3. Chị Nguyễn Thị Việt A được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Anh Lê Văn C được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
Bản án 501/2019/HNGĐ-ST ngày 12/09/2019 về ly hôn giữa chị Nguyễn Thị Việt A và anh Lê Văn C
Số hiệu: | 501/2019/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Nam Định - Nam Định |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 12/09/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về