Bản án 499/2020/HS-PT ngày 12/10/2020 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI HÀ NỘI

BẢN ÁN 499/2020/HS-PT NGÀY 12/10/2020 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 12 tháng 10 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Sơn La, Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số 86/2020/TLPT-HS ngày 14 tháng 01 năm 2020 đối với các bị cáo Lê Đức T, Lầu Bả C, do có kháng cáo của các bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 131/2019/HSST ngày 30/11/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Sơn La.

* Các bị cáo có kháng cáo:

1. Lê Đức T, tên gọi khác: Không, sinh năm 1989 tại TS, Thanh Hóa; nơi ĐKHKTT: xóm 6, xã Thọ Cg, huyện TS, Thanh Hóa; tạm trú: Tổ dân phố 8, thị trấn S, huyện S, tỉnh Sơn La; nghề nghiệp: Lái xe; trình độ văn hóa: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Không; Đảng, đoàn thể: Không; con ông Lê Đức H(đã chết) và bà Trần Thị H1; có vợ là Tòng Thị G và có 01 con sinh năm 2019; tiền sự: Không; tiền án: bị cáo có 05 tiền án:

+ Ngày 28/6/2006 bị Tòa án nhân dân thị xã Sơn La (nay là thành phố Sơn La) xử phạt 09 tháng tù nhưng cho hưởng án treo về tội “Trộm cắp tài sản”;

+ Ngày 19/7/2006 bị Tòa án nhân dân huyện Sông Mã xử phạt 12 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thử thách 24 tháng về tội “Trộm cắp tài sản”;

+ Ngày 19/6/2009 bị Tòa án nhân dân huyện Mai Sơn xử phạt 24 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”;

+ Ngày 02/7/2009 bị Tòa án nhân dân huyện Sông Mã xử phạt 48 tháng tù về hai tội “Trộm cắp tài sản” và tội “Không chấp hành các quyết định hành chính của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền về việc đưa vào cơ sở giáo dục, cơ sở chữa bệnh”;

+ Năm 2015 bị Tòa án nhân dân huyện Sốp Cộp xử phạt 24 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”;

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 26/3/2019 đến nay, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Sơn La; có mặt.

2. Lầu Bả C, tên gọi khác: Không, sinh năm 1979 tại S, Sơn La; Nơi cư trú: bản K, xã H, huyện S, tỉnh Sơn La; nghề nghiệp: Trồng trọt; trình độ văn hóa: 10/12; dân tộc: Mông; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Không; Đảng, đoàn thể: Không; con ông Lầu Chái M và bà Mùa Thị M1; có vợ là Giàng Thị A và có 03 con, con lớn nhất sinh năm 2005, con nhỏ nhất sinh năm 2009; tiền sự: Không; tiền án: Năm 2011 bị Tòa án nhân dân huyện Sông Mã, xử phạt 09 năm tù về hai tội: “Mua bán trái phép chất ma túy” và “Chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy”; bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 26/3/2019 đến nay, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Sơn La; có mặt.

* Người bào chữa cho các bị cáo Lê Đức T, Lầu Bả C: Lut sư Đàm Mạnh H2 thuộc Đoàn luật sư tỉnh Sơn La; có mặt.

* Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

1. Chị Tòng Thị G, sinh năm: 1991; nơi cư trú: Tổ dân phố 8, thị trấn S, huyện S, tỉnh Sơn La; vắng mặt.

2. Chị Giàng Thị A, sinh năm: 1986; trú tại: bản K, xã H, huyện S, tỉnh Sơn La; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và bản án sơ thẩm, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hi 13 giờ 00 phút ngày 26/3/2019, Tổ công tác Công an huyện Sông Mã làm nhiệm vụ tại đường 4G, khu vực bản Quyết T, xã Nà Ng, huyện S, tỉnh Sơn La phát hiện 01 chiếc xe ô tô, 01 chiếc xe mô tô đậu ở bên đường. Nghi vấn các đối tượng ở trong xe có biểu hiện liên quan đến ma túy. Tổ công tác tiến hành đến kiểm tra thì các đối tượng trong xe ô tô tăng ga để bỏ chạy, Tổ công tác kịp thời mở cửa xe và kéo được một đối tượng ra khỏi xe, cùng với đó là 01 túi nilon chứa đồ vật rơi từ trong xe xuống mặt đường. Các đối tượng khác cùng chiếc xe ô tô đã chạy thoát. Đối tượng bị bắt giữ được xác định là Lê Đức T, trú tại tổ dân phố 8, thị trấn S. Vật chứng thu giữ trong túi nilon là 04 bánh bột nén màu trắng (T khai là Heroine). Ngoài ra còn thu giữ 01 xe máy BKS 36R1-xxxx và 01 chiếc điện thoại di động. Tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Lê Đức T. Mở rộng điều tra, cùng ngày 26/3/2019, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện S ra lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp đối với Lầu Bả C, sinh năm 1979, nơi cư trú: bản K, xã H, huyện S, tỉnh Sơn La. Tiến hành khám xét nơi ở của Lầu Bả C, phát hiện và thu giữ trong két sắt nhãn hiệu Việt Tiệp: 01 gói ni lon bên trong có bột nén màu trắng (C khai là Heronie). Ngoài ra còn thu giữ 32.600.000 đồng, 01 xe máy hiệu Airblade BKS 26B1-267.xx, 02 ĐTDĐ nhãn hiệu Nokia, Huawei và một số đồ vật tài sản có liên quan.

Ngày 26/03/2019 Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Sông Mã thành lập hội đồng mở niêm phong cân tịnh, xác định khối lượng, trích mẫu trưng cầu giám định số vật chứng thu giữ của Lê Đức T và Lầu Bả C.

Số ma túy thu giữ khi bắt quả tang gồm“04 bánh bột nén màu trắng, có tổng khối lượng 1.249,45 gam, trích lấy 14,68 gam ký hiệu từ H1 đến H4, để giám định chất ma túy”.

Số ma túy thu giữ khi khám xét tại nơi ở của Lầu Bả C gồm “01 gói bột nén màu trắng, có tổng khối lượng 55,14 gam, trích lấy 2,51 gam ký hiệu H5, để giám định chất ma túy”.

Kết luận giám định số 692/KLMT ngày 29/03/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La kết luận: “Mẫu gửi giám định ký hiệu từ H1 đến H5 là ma túy, loại chất Heroine. Khối lượng của mẫu gửi giám định là 17,19 gam. Tổng khối lượng chất ma túy thu giữ được là 1.304,59 gam; loại Heroine”.

Quá trình điều tra, Lê Đức T, Lầu Bả C khai nhận:

Sáng ngày 23/3/2019, Lê Đức T, đang ở nhà tại tổ dân phố 8, thị trấn S thì có một người phụ nữ tự giới thiệu tên V, nhà ở phường Quyết T, thành phố Sơn La gọi điện đặt vấn đề bảo T tìm mua 04 bánh Heroin, T đồng ý và nói khi nào có ma túy sẽ thông báo. Sau đó T gọi điện cho Lầu Bả C, bảo C tìm mua được 04 bánh Heroin để bán cho khách. C đồng ý. Khoảng 19 giờ cùng ngày (23/3/2019), C đi ra đầu cầu bản K, xã H, huyện S để mua đồ dùng cho gia đình thì gặp Giàng A C1, trú tại bản X, xã H, huyện S. Qua nói chuyện, biết C1 có thể mua được ma túy, C đặt vấn đề mua 04 bánh Heroine, C1 đồng ý. Hai người thống nhất khi nào mua được ma túy, C1 sẽ mang đến nhà C. Khoảng 08 giờ ngày 25/3/2019, C1 đi xe máy (không rõ BKS) đến nhà bán cho C 04 bánh Heroine với giá 110.000.000đồng/01 bánh. C đồng ý và nói cho mua nợ, khi nào bán được ma túy sẽ trả tiền sau, C1 đồng ý. C1 đưa cho C 01 gói Heroine, nói là trả công, mua bán xong C1 bỏ đi. C mang 04 bánh Heroin mua được cất giấu vào đống củi sau nhà của gia đình, còn 01 gói Heroine C mang cất giấu vào trong chiếc két sắt của gia đình (C không nói cho vợ con biết), mục đích để bán kiếm lời. Đến khoảng 20 giờ cùng ngày (25/3/2019), C gọi điện cho T nói đã có 04 bánh Heroin bán giá 120.000.000đồng/01 bánh, T đồng ý.

Sáng ngày 26/3/2019, V gọi điện cho T, T bảo hiện đã có 04 bánh Heroin bán giá 125.000.000đồng/01 bánh, V đồng ý. T và V thống nhất địa điểm mua bán ma túy vào hồi 11 giờ cùng ngày (26/3/2019) tại nhà của T, ở tổ dân phố 8, thị trấn huyện S. Thống nhất với V xong, T gọi điện bảo C mang 04 bánh Heroine đến nhà T để bán cho khách. Khoảng 11 giờ cùng ngày (26/3/2019), C cho 04 bánh Heroin vào trong cốp xe máy BKS 26B1-267.xx đi đến nhà T. C đưa cho T 04 bánh Heroin và nói giá bán 01 bánh Heroin là 120.000.000 đồng, nếu bán được giá cao hơn thì T được hưởng, T đồng ý. Ngay lúc đó V gọi điện cho T là V sẽ không vào nhà T mà bảo T mang ma túy đến khu vực bản Quyết T, xã Nà Ng, huyện S. T cho 04 bánh Heroin vào 01 túi vải hiệu KANIPHA mang đi giao cho V, còn Lầu Bả C nghỉ ở nhà T, chờ lấy tiền.

Khong 13 giờ cùng ngày (26/03/2019), khi T đi đến khu vực bản Quyết T, xã Nà Ng, huyện S, thì gặp một người phụ nữ và một người đàn ông đứng ở bên đường. Gặp nhau người phụ nữ giới thiệu tên V, T đưa 04 bánh Heroine cho Việt kiểm tra. Khi T, V và người đàn ông đang trao đổi mua bán ma túy, thì Tổ công tác đến kiểm tra, các đối tượng tăng ga bỏ chạy, còn Lê Đức T bị Tổ công tác Công an huyện S kéo ra khỏi xe cùng số vật chứng. Sau đó, Lầu Bả C cũng bị bắt theo lệnh bắt khẩn cấp của Công an huyện S.

Ngun gốc 04 bánh Heroine có tổng khối lượng 1.249,45 và 55,14 gam Heroine, tổng khối lượng là 1.304,59 gam, Lầu Bả C khai mua của người đàn ông dân tộc Mông tên Giàng A C1, trú tại: bản X, xã H, huyện S, tỉnh Sơn La. Cơ quan Cảnh sát điều tra đã xác minh tại địa chỉ nêu trên Giàng A C1 không có mặt tại địa phương, hiện nay chỉ có một lời khai của Lầu Bả C. Do vậy Cơ quan Cảnh sát điều tra đưa đối tượng Giàng A C1 vào hồ sơ quản lý nghiệp vụ, tiếp tục xác minh, khi có căn cứ sẽ xử lý sau.

Đi với người phụ nữ mua ma túy tên V và người đàn ông cùng đi, T không biết địa chỉ cụ thể của V và người đàn ông ở đâu, do vậy Cơ quan điều tra không có căn cứ để xác minh điều tra.

Cáo trạng số 107/VKS-P1 ngày 18/11/2019 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Sơn La truy tố các bị cáo Lê Đức T, Lầu Bả C về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 4 Điều 251 Bộ luật Hình sự.

Tại Bản án sơ thẩm số 131/2019/HSST ngày 30/11/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Sơn La đã quyết định: Căn cứ điểm b khoản 4 Điều 251, điểm s, t khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự 2015:

Xử phạt bị cáo Lê Đức T, Lầu Bả C tử hình về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Tiếp tục tạm giam các bị cáo để đảm bảo thi hành án.

Không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với bị cáo Lê Đức T.

Phạt tiền bị cáo Lầu Bả C 5.000.000 đồng.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về xử lý vật chứng; án phí và thông báo quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật. Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 06/12/2019 bị cáo Lê Đức T có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và đề nghị làm rõ hành vi của đối tượng tên là Việt là người đặt mua ma túy của T.

Ngày 10/12/2019 bị cáo Lầu Bả C có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt. Tại phiên tòa phúc thẩm các bị cáo Lê Đức T và Lầu Bả C giữ nguyên nội dung kháng cáo.

Bị cáo Lầu Bả C tiếp tục thừa nhận hành vi như bản án sơ thẩm đã xác định là đúng người, đúng tội. Bị cáo trình bày bị cáo là người dân tộc thiểu số nên nhận thức pháp luật hạn chế, đời sống kinh tế khó khăn nên đề nghị được giảm nhẹ hình phạt để có cơ hội sống cải tạo tốt trở về.

Bị cáo Lê Đức T đề nghị Hội đồng xét xử là rõ hành vi đặt mua ma túy của đối tượng Việt mà T đã khai tại cơ quan điều tra; T đã có đơn tố giác tội phạm gửi cơ quan điều tra Công an tỉnh Sơn La từ ngày 24/4/2020. Tại phiên tòa ngày 13/8/2020, chị Tòng Thị G là vợ của bị cáo T đã gửi 02 bức ảnh do gia đình tự chụp đối tượng V và chồng là C2; hai đối tượng này hiện vẫn đang sinh sống tại phường Quyết T, thành phố Sơn La như khi T khai báo tại cơ quan điều tra. Chị G và T cam kết đây là ảnh của vợ chồng V được chụp vào ngày 03/4/2020 và đề nghị Hội đồng làm rõ vai trò chủ mưu của V để đưa ra xét xử trong cùng vụ án này. Đối với hành vi mua bán ma túy cho V và bị bắt quả tang như bản án sơ thẩm đã xác định thì T thừa nhận là đúng người, đúng tội và xin được giảm nhẹ hình phạt.

Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội kết luận: Về tố tụng, các cơ quan tiến hành tố tụng cấp sơ thẩm và Hội đồng xét xử phúc thẩm thực hiện đúng các quy định.

Bị cáo Lê Đức T mua bán trái phép chấy ma túy bị bắt quả tang; Tại phiên tòa phúc thẩm, các bị cáo Lê Đức T và Lầu Bả C đều thừa nhận hành vi phạm tội của mình, nay chỉ xin giảm nhẹ hình phạt. Với việc mua bán 04 bánh Heroine có trọng lượng 1.249,45 gam; đối với C còn thêm 55,14 gam Heroine thì việc Tòa án cấp sơ thẩm đã quy kết và quyết định hình phạt tử hình với cả hai bị cáo là phù hợp vì hai bị cáo đều có nhân thân xấu; bị cáo Lê Đức T đã 05 lần bị tòa án đưa ra xét xử; bị cáo Lầu Bả C đã bị xứ phạt tù về cùng loại tội ma túy. Do vậy không có căn cứ xem xét giảm nhẹ hình phạt cho hai bị cáo. Đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo, giữ nguyên các quyết định của bản án sơ thẩm.

Đi với kháng cáo của bị cáo Lê Đức T về việc làm rõ hành vi của đối tượng Việt: Do đối tượng V đã bỏ trốn trong giai đoạn điều tra. Nay gia đình bị cáo nộp thêm ảnh của đối tượng, Viện kiểm sát nhân dân cấp cáo sẽ kiến nghị tiếp tục điều tra làm rõ, nếu có căn cứ thì việc tố giác của bị cáo T sẽ được Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam xem xét. Luật sư bào chữa cho bị cáo Lê Đức T và Lầu Bả C cho rằng các bị cáo tham gia phạm tội do là người người dân tộc sống ở vùng xa xôi, hẻo lánh nên nhận thức pháp luật hạn chế, chưa được hưởng lợi trong vụ án này. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm hình phạt cho cả hai bị cáo để các bị cáo có cơ hội sống, cải tạo tốt. Đối với việc bị cáo Lê Đức T khi bị bắt đã khai ra Lầu Bả C và nay còn khai ra đối tượng V nhưng chưa được làm rõ; T có 02 tình tiết giảm nhẹ tại khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự và nay có ông ngoại và bác là người có công được tặng huân chương kháng chiến nên đề nghị giảm hình phạt cho bị cáo. Ngoài ra đối với việc T tố giác hành vi của đối tượng Việt thì luật sư cũng đã giải thích cho bị cáo T về việc không thể đưa hành vi của Việt ra xét xử trong vụ án này mà đã cùng gia đình bị cáo gửi đơn tố giác tới cơ quan điều tra, bước đầu cơ quan điều tra đã thu thập lời khai của gia đình bị cáo để thực hiện quy trình theo quy định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Nghiên cứu hồ sơ vụ án, kết quả quá trình điều tra, diễn biến, kết quả phiên tòa sơ thẩm và xem xét đơn kháng cáo cũng như lời khai của bị cáo; của những người làm chứng đồng thời thông qua kết quả xét hỏi và tranh tụng tại phiên tòa phúc thẩm, Hội đồng xét xử phúc thẩm đánh giá và nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Đơn kháng cáo của các bị cáo Lê Đức T và Lầu Bả C làm trong hạn nên được chấp nhận để xem xét.

Tại phiên toà cả hai bị cáo đều thành khẩn khai báo, thừa nhận hành vi phạm tội đúng như bản án sơ thẩm đã xác định nay chỉ xin giảm nhẹ hình phạt.

Bị cáo Lê Đức T trình bày gia đình có ông ngoại và bác được tặng huân chương kháng chiến; đồng thời nộp bản ảnh mà bị cáo và gia đình xác định đó chính là vợ chồng đối tượng V là người chủ mưu đặt mua ma túy của T và hiện vẫn đang sinh sống tại địa chỉ phường Quyết Tg, thành phố Sơn La như bị cáo khai ban đầu nên đề nghị làm rõ để đưa ra xét xử trong cùng vụ án này. Do giới hạn của việc xét xử nên Hội đồng xét xử kiến nghị Cơ quan điều tra Công an tỉnh Sơn La tiếp tục điều tra làm rõ nội dung tố giác của bị cáo T theo đúng quy định.

[2] Về nội dung, xét kháng cáo của các bị cáo:

Tại phiên toà phúc thẩm, các bị cáo Lê Đức T và Lầu Bả C tiếp tục thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như bản án sơ thẩm đã xác định. Lời khai của các bị cáo tại phiên tòa hôm nay phù hợp với lời khai của các bị cáo tại Cơ quan điều tra và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án như: Biên bản bắt người phạm tội quả tang lập hồi 13 giờ 15 phút ngày 26/3/2019 tại bản Quyết T, xã Nà Ng, huyện S, tỉnh Sơn La đối với Lê Đức T, vật chứng thu giữ là 01 túi ni lon bên trong có chứa 04 bánh bột nén màu trắng (T khai là Heroine); Biên bản khám xét lập hồi 17 giờ 15 phút ngày 26/3/2019 tại nhà Lầu Bả C ở bản K, H, S. Kết quả: Thu giữ 01 két sắt nhãn hiệu Việt Tiệp. Hồi 18 giờ 15 phút cùng ngày, tiến hành mở két sắt phát hiện 01 gói nilon màu trắng bên trong có chứa chất bột màu trắng (C khai là Heroine); Kết luận giám định số 692/KLMT ngày 29/03/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La kết luận “Mẫu gửi giám định ký hiệu từ H1 đến H5 là ma túy, loại chất Heroine. Khối lượng của mẫu gửi giám định là 17,19 gam. Tổng khối lượng chất ma túy thu giữ được là 1.304,59 gam; loại Heroine”; Lời khai nhận tội của các bị cáo Lê Đức T, Lầu Bả C tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa phù hợp với nhau, phù hợp với lời khai của người chứng kiến việc cơ quan Công an đã kiểm tra và thu giữ ma túy đối với các bị cáo, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác đã thu thập lưu trong hồ sơ vụ án.

Tòa án cấp sơ thẩm đã xác định: Bị cáo Lê Đức T có hành vi mua bán trái phép 1.249,45 gam Heroine, bị cáo Lầu Bả C có hành vi mua bán trái phép 1.304,59 gam Heroine đã vi phạm tình tiết định khung hình phạt “Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR-11 có khối lượng từ 100 gam trở lên” quy định tại điểm b khoản 4 Điều 251 Bộ luật Hình sự là thuộc trường hợp đặc biệt nghiêm trọng.

Khi quyết định hình phạt, Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét đầy đủ các tình tiết tăng nặng như: Các bị cáo Lê Đức T, Lầu Bả C đều đã bị kết án, chưa được xóa án tích lại tiếp tục phạm tội thuộc trường hợp đặc biệt nghiêm trọng, là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “tái phạm nguy hiểm” quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự. Về tình tiết giảm nhẹ: Các bị cáo Lê Đức T, Lầu Bả C đều thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Bị cáo Lê Đức T khai ra đồng phạm là Lầu Bả C, giúp cơ quan điều tra sớm kết thúc vụ án, là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm t khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự là đã đầy đủ.

Hành vi phạm tội của các bị cáo là đặc biệt nghiêm trọng, số lượng ma túy các bị cáo mua bán là lớn. Do vậy khi quyết định hình phạt Toà án cấp sơ thẩm đã xác định các bị cáo có tình tiết tăng nặng là tái phạm nguy hiểm; áp dụng đủ các tình tiết giảm nhẹ như bị cáo đều xuất thân là nhưng người lao động bình thường; bị cáo Lầu Bả C là người dân tộc thiểu số, trước cơ quan điều tra và tại phiên tòa đã thành khẩn khai báo tội lỗi của mình đây là những tình tiết giảm nhẹ theo qui định tại điểm s khoản 1 Điều 51, bị cáo T được áp dụng thêm điểm t khoản 1 Điều 51, ông ngoại và bác của bị cáo T được tặng Huân chương kháng chiến hạng nhì, đây là tình tiết giảm nhẹ tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự nhưng vẫn quyết định hình phạt cao nhất đối với các bị cáo là có căn cứ và phù hợp quy định của pháp luật. Bị cáo Lầu Bả C nộp “Giấy xác nhận hộ nghèo, hộ cận nghèo” có công chứng bản sao. Do đó xem xét miễn án phí phúc thẩm cho bị cáo. Bị cáo Lầu Bả C kháng cáo xin giảm hình phạt nhưng không có tình tiết giảm nhẹ gì mới đáng kể để xem xét, do vậy không có căn cứ chấp nhận kháng cáo giảm hình phạt cho bị cáo Lầu Bả C.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ khi hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Do kháng cáo không được chấp nhận nên lẽ ra các bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm, nhưng cần căn cứ vào khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án nên cần miễn án phí hình sự phúc thẩm cho các bị cáo.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm a khoản 1, khoản 2 Điều 355; Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

Không chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Lê Đức T và bị cáo Lầu Bả C; Giữ nguyên các quyết định về hình phạt của Bản án hình sự sơ thẩm số 131/2019/HSST ngày 30/11/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Sơn La. Cụ thể:

1. Căn cứ điểm b khoản 4 Điều 251, điểm s, t khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự 2015;

Tuyên bố bị cáo Lê Đức T phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Xử phạt bị cáo Lê Đức T tử hình.

Tiếp tục tạm giam bị cáo Lê Đức T để đảm bảo thi hành án.

Không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với bị cáo.

2. Căn cứ điểm b khoản 4, khoản 5 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự 2015;

Tuyên bố bị cáo Lầu Bả C phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Xử phạt bị cáo Lầu Bả C tử hình.

Tiếp tục tạm giam bị cáo Lầu Bả C để đảm bảo thi hành án.

Phạt tiền bị cáo Lầu Bả C 5.000.000 đồng.

2. Về án phí: Các bị cáo Lê Đức T, Lầu Bả C không phải nộp án phí hình sự phúc thẩm.

3. Trong thời hạn 07 ngày, kể từ ngày tuyên án (12/10/2020), các bị cáo Lê Đức T, Lầu Bả C được quyền gửi đơn xin ân giảm hình phạt tử hình lên Chủ tịch nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.

4. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

228
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 499/2020/HS-PT ngày 12/10/2020 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:499/2020/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 12/10/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về