Bản án 497/2020/HNGĐ-ST ngày 31/12/2020 về ly hôn

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN P, TỈNH BẾN TRE

BẢN ÁN 497/2020/HNGĐ-ST NGÀY 31/12/2020 VỀ LY HÔN

Ngày 31 tháng 12 năm 2020 tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Pxét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 435/2020/TLST-HNGĐ ngày 12 tháng 10 năm 2020 về việc tranh chấp “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 59/2020/QĐXXST- HNGĐ ngày 30/11/2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 49/2020/QĐST-HNGĐ ngày 24/12/2020 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Nguyễn Thị D, sinh năm 1980. Nơi cư trú: Số 490/4, ấp Giang Hà, xã An Điền, huyện Thạnh Phú, tỉnh Bến Tre. (có đơn xin vắng mặt)

 2. Bị đơn: Lê Văn L, sinh năm 1979. Nơi cư trú: Số 490/4, ấp Giang Hà, xã An Điền, huyện Thạnh Phú, tỉnh Bến Tre. (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 29/7/2020, trong quá trình tố tụng và đơn yêu cầu xét xử vắng mặt ngày 24/12/2020, nguyên đơn chị Nguyễn Thị D trình bày:

Chịị D và anh Lê Văn L cưới nhau vào năm 2002, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Hòa Lợi và được cấp giấy chứng nhận kết hôn vào ngày 05/6/2018, trong thời gian sống chung có 03 người con chung tên Lê Tuấn K, sinh ngày 21/8/2002, Lê Quốc D, sinh ngày 10/7/2004 và Lê Khải V, sinh ngày 23/9/2006 hiện nay Lê Quốc D và Lê Khải V đang sống chung với Chị D. Thời gian đầu Chị D và anh Luận sống chung hạnh phúc nhưng sau đó thường xuyên xảy ra mâu thuẫn do tính tình không hợp nhau, anh Luận mỗi lần đi nhậu về thường kiếm chuyện ghen tuông, chửi bới, không phụ giúp gia đình nên tình cảm vợ chồng ngày càng rạn nứt và hiện nay đã ly thân, không còn quan tâm chăm sóc lẫn nhau.

Nay Chị D yêu cầu về hôn nhân được ly hôn với anh Lê Văn L. Chị D không yêu cầu nghĩa vụ cấp dưỡng giữa vợ chồng khi ly hôn.

Về con chung: Lê Tuấn Kiệt, sinh ngày 21/8/2002 đã trưởng thành nên không yêu cầu xem xét. Chị D yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng Lê Quốc D, sinh ngày 10/7/2004 và Lê Khải Văn, sinh ngày 23/9/2006 và không yêu cầu anh Luận cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết.

Về nợ chung: không có nên không yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết.

Tại phiên tòa bị đơn anh Lê Văn L vắng mặt nhưng theo nội dung bản tự khai ngày 14/10/2020 và trong quá trình tố tụng anh Luận trình bày:

Anh Luận và chị Nguyễn Thị D cưới nhau năm 2002 và có đăng ký kết hôn tại UBND xã H Lvà được cấp giấy chứng nhận đăng ký kết hôn vào năm 2018. Thời gian đầu chung sống hạnh phúc có được 03 người con chung: Lê Tuấn K, sinh ngày 21/8/2002; Lê Quốc D, sinh ngày 10/7/2004 và Lê Khải V, sinh ngày 23/9/2006.

Theo anh Luận nguyên nhân Chị D xin ly hôn là do khi anh đi làm hồ (ngày tám tiếng) về có khi nhậu anh có rầy la Chị D, anh không có phụ giúp Chị D lựa đồ phế liệu. Hai bên vẫn sống chung nhà không có ly thân nhưng không có ngũ chung khoảng 01 năm nay, nhưng anh L xác định còn thương Chị D nên không đồng ý ly hôn. Nếu có ly hôn anh L không yêu cầu nghĩa vụ cấp dưỡng giữa vợ chồng khi ly hôn.

Về con chung: Lê Tuấn K, sinh ngày 21/8/2002 đã trưởng thành nên không yêu cầu giải quyết. Nếu có ly hôn thì anh Lyêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng Lê Quốc D, sinh ngày 10/7/2004 và Lê Khải V, sinh ngày 23/9/2006 và anh L không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: tự thỏa thuận, không yêu cầu giải quyết. Về nợ chung: không có, không yêu cầu giải quyết.

Kiểm sát viên phát biểu quan điểm giải quyết vụ án cho rằng: Trong quá trình thụ lý giải quyết vụ án Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án đã thực hiện đầy đủ các thủ tục tố tụng; Tại phiên tòa Thẩm phán Chủ tọa phiên tòa, các Hội thẩm nhân dân, Thư ký đã thực hiện đầy đủ theo đúng thủ tục tố tụng; người tham gia tố tụng là nguyên đơn, bị đơn đã nghiêm túc chấp hành đúng quy định tại các Điều 70, 71, 72 Bộ luật tố tụng dân sự.

Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Nguyễn Thị D.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên toà, đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Thạnh Phú. Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Thẩm quyền giải quyết: Chị Nguyễn Thị D yêu cầu ly hôn với anh Lê Văn L, do bị đơn sinh sống tại huyện Pnên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Ptheo quy định các Điều 28, Điều 35, Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về thủ tục tố tụng: Nguyên đơn chị Nguyễn Thị D có đơn xin vắng mặt; bị đơn anh Lê Văn L vắng mặt tại phiên tòa lần thứ hai không có lý do nên căn cứ vào các Điều 227, 228 của Bộ luật tố tụng dân sự Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự này.

[3] Chị Nguyễn Thị D và anh Lê Văn L cưới nhau vào năm 2002, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Hòa Lợi và được cấp giấy chứng nhận kết hôn vào ngày 05/6/2018 là hôn nhân hợp pháp. Thời gian đầu sống chung hạnh phúc sau đó phát sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm trong cuộc sống, hai bên không có thiện chí dung hòa khắc phục mâu thuẫn hiện nay đã ly thân, trong khoảng thời gian không sống chung hai bên không tạo điều kiện cho nhau để hàn gắn tình cảm, cũng như hai bên không có giải pháp nào giải quyết những mâu thuẫn để sum họp gia đình và từ khi ly thân hai bên có cuộc sống riêng tư, không còn quan tâm chăm sóc lẫn nhau. Đồng thời quá trình giải quyết Tòa án thu thập chứng cứ bằng biện pháp xác minh tình trạng hôn nhân thì được xác nhận tình trạng hôn nhân hai bên đã xảy ra nhiều mâu thuẫn, bất đồng trong cuộc sống và sinh hoạt. Xác định Chị D và anh L đã vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên yêu cầu xin ly hôn của Chị D là có cơ sở phù hợp tại các Điều 51, 56 Luật hôn nhân và gia đình nên được Hội đồng xét xử chấp nhận, cho chị Nguyễn Thị D được ly hôn với anh Lê Văn L. Về nghĩa vụ cấp dưỡng giữa vợ và chồng khi ly hôn do hai bên không yêu cầu nên không xem xét.

[4] Xét về con chung: Lê Tuấn K, sinh ngày 21/8/2002 đã trưởng thành không yêu cầu giải quyết nên không xem xét.

Chịị D yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng Lê Quốc D, sinh ngày 10/7/2004 và Lê Khải V, sinh ngày 23/9/2006. Qua lấy ý kiến con chung thì cháu Quốc D và cháu Khải V có nguyện vọng sống chung với Chị D và hiện nay các con đang sống chung với Chị D nên không cần thiết phải thay đổi môi trường sống để đảm bảo sự phát triển bình thường của 02 cháu. Hội đồng xét xử Quyết định giao 02 con chung Quốc D và Khải V cho Chị D được trực tiếp nuôi dưỡng và anh L không cấp dưỡng nuôi con do Chị D không có yêu cầu.

[5] Tài sản chung: Các đương sự không yêu cầu giải quyết nên không xem xét.

[6] Nợ chung: không có nên không xem xét.

[7] Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

[8] Chị Nguyễn Thị D phải nộp án phí hôn nhân gia đình theo quy định tại Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự. Các đương sự có quyền kháng cáo bản án theo quy định tại Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, các Điều 147, 227, 228, 238, 273 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

Áp dụng các Điều 51, 56, 81, 82, 83, 84, 115 Luật hôn nhân và gia đình;

Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc Hội qui định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí của Toà án.

- Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị D. Cho chị Nguyễn Thị D được ly hôn với anh Lê Văn L. Về nghĩa vụ cấp dưỡng giữa vợ và chồng khi ly hôn do hai bên không có yêu cầu nên Tòa án không xem xét.

- Về con chung: Lê Tuấn K, sinh ngày 21/8/2002 đã trưởng thành không yêu cầu giải quyết nên không xem xét.

Chịị D được trực tiếp nuôi dưỡng Lê Quốc D, sinh ngày 10/7/2004 và Lê Khải V, sinh ngày 23/9/2006 (theo nguyện vọng của 02 con chung). Anh L không phải cấp dưỡng nuôi con do Chị D không có yêu cầu.

Anh Luận có quyền đến thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung không ai có quyền ngăn cản. Vì lợi ích của con chung, một hoặc hai bên có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con cũng như mức cấp dưỡng nuôi con theo qui định.

- Về tài sản chung: Các đương sự không yêu cầu giải quyết nên không xem xét.

- Về nợ chung: Không có nên không xem xét giải quyết.

- Về án phí hôn nhân và gia đình: Chị D phải nộp 300.000đồng nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000đồng theo biên lai thu số: 0003231 ngày 12/10/2020 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Thạnh Phú. Như vậy án phí Chị D đã nộp xong.

Đương sự vắng mặt được quyền làm đơn kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự để yêu cầu Toà án cấp trên xét xử phúc thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành án theo qui định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được Thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

199
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 497/2020/HNGĐ-ST ngày 31/12/2020 về ly hôn

Số hiệu:497/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thạnh Phú - Bến Tre
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 31/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về