Bản án 497/2019/HS-ST ngày 27/11/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 497/2019/HS-ST NGÀY 27/11/2019 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 27 tháng 11 năm 2019 tại Trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 564/2019/TLST-HS ngày 14/10/2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 5209/2019/QĐXXST-HS ngày 28/10/2019 và Quyết định hoãn phiên toà số 9513/2019/HSST-QĐ ngày 11/11/2019, đối với bị cáo:

Đặng Anh T, sinh năm 1993, tại tỉnh T; Nơi cư trú: đội A, ấp B, xã T, huyện P, tỉnh B; Chỗ ở: phòng 128, nhà trọ GH, số 74, đường H, phường HT, quận M, thành phố H; Nghề nghiệp: không; Trình độ học vấn: 8/12; Giới tính: Nam; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không; Con ông Đặng Văn P, sinh năm 1967 và bà Nguyễn Thị Kim H, sinh năm 1967; Chưa có vợ, con; Tiền án: không;

Tiền sự: không.

Bị bắt, tạm giam từ ngày 27/8/2018 (có mặt).

Người bào chữa cho bị cáo Đặng Anh T: Bà Nguyễn Ngọc T1 - Luật sư của Văn phòng Luật sư HTH thuộc Đoàn Luật sư Thành phố Hồ Chí Minh (có mặt).

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

1. Ông Phan Hữu T2, sinh năm 1993

Hộ khẩu thường trú: ấp TT, xã TL, huyện P, tỉnh B.

Chỗ ở: phòng 114, nhà trọ GH, số 74, đường H, phường HT, quận M, thành phố H (vắng mặt)

2. Bà Đặng Thị Kiều T3, sinh năm 1990

Hộ khẩu thường trú: đội A, ấp B, xã T, huyện P, tỉnh B.

Chỗ ở: phòng 114, nhà trọ GH, số 74, đường H, phường HT, quận M, thành phố H (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 19 giờ 30 phút ngày 27/8/2018, Đội Cảnh sát Điều tra tội phạm về ma túy - Công an huyện C kiểm tra Đặng Anh T đang ngồi trên xe môto biển số 62K1-254.84 tại trước số nhà B4/17A Quốc lộ 1A, ấp B, xã T, huyện C, trong túi quần bên trái phía trước của Đặng Anh T có 01 vỏ bao thuốc lá hiệu Jet, bên trong có 01 gói nylon chứa tinh thể không màu, qua giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 32,0609 gam loại Methamphetamine - theo Kết luận giám định số 1454/KLGĐ-H ngày 04/9/2018 của Phòng Kỹ thuật Hình sự - Công an Thành phố Hồ Chí Minh. Sau đó, Công an lập biên bản phạm tội quả tang. Đặng Anh T khai nhận ma túy này do Đặng Thị Kiều T3 và Phan Hữu T2 nhờ Đặng Anh T đi bán.

Căn cứ vào lời khai của Đặng Anh T, lúc 23 giờ 55 phút ngày 27/8/2018, Cơ quan Điều tra khám xét khẩn cấp nơi ở của Phan Hữu T2 và Đặng Thị Kiều T3 tại phòng 114 nhà trọ 74 đường H, khu phố D, phường HT, quận M, thu giữ máy ép, cân điện tử…nhưng không có ma túy. Tại thời điểm kiểm tra có Nguyễn Như N, Nguyễn Phi L, nên mời tất cả về công an để làm rõ.

Quá trình điều tra, Đặng Anh T khai nhận trước khi bị bắt khoảng nửa tháng, Đặng Anh T đến ở chung nhà với chị ruột là Đặng Thị Kiều T3 và anh rễ Phan Hữu T2, Đặng Anh T thấy có vài người đến mua ma túy nhưng mua bán như thế nào Đặng Anh T không biết. Ngày 24/8/2018, Đặng Thị Kiều T3 có nhờ Đặng Anh T cầm 01 gói ma túy giấu trong hộp kem dưỡng da đến khu vực Cầu vượt, quận M giao cho T4 (không rõ lai lịch), khi đến nơi Đặng Anh T điện thoại cho Đặng Thị Kiều T3 biết để Đặng Thị Kiều T3 liên hệ cho T4 ra nhận ma túy, nên Đặng Anh T không biết số điện thoại của T4. Đến ngày 27/8/2019, tương tự như lần đầu Phan Hữu T2 cũng nhờ Đặng Anh T cầm hộp thuốc là Jet bên trong có ma túy đến địa điểm trên giao cho T4, nhưng chưa gặp được T4 thì bị công an bắt và qua kiểm tra Đặng Anh T mới biết khối lượng 32,0609 gam loại Methamphetamine. Đặng Anh T được Đặng Thị Kiều T3 nuôi ăn, ở trong nhà, thỉnh thoảng cho tiền xài, còn Phan Hữu T2 cho Đặng Anh T ma túy sử dụng một lần.

Tại Cơ quan điều tra Công an huyện C, Đặng Thị Kiều T3 và Phan Hữu T2 khai sống chung với nhau như vợ chồng tại phòng 114 nhà trọ 74 đường HT43, khu phố D, phường HT, quận M, Đặng Anh T là em ruột của Đặng Thị Kiều T3. Tối ngày 27/8/2018, Phan Hữu T2 đưa cho Đặng Anh T 01 gói ma túy để trong hộp thuốc lá Jet và nhờ Đặng Anh T bán cho T4 tại cầu vượt NVL với giá 20.000.000 đồng, nhưng Đặng Anh T đến điểm hẹn chưa kịp bán thì bị bắt quả tang. Trước đó ngày 24/8/2018, Đặng Thị Kiều T3 nhờ Đặng Anh T bán 01 gói ma túy cho T4 với giá 15.000.000 đồng tại cầu vượt. Cả hai mua ma túy của đối tượng M1 (không rõ lai lịch) và liên hệ qua điện thoại di động số 0967767731. Ngày 26/8/2018, Phan Hữu T2 mua ½ lạng Methamphetamine với giá 24.000.000 đồng, Phan Hữu T2 nói Đặng Thị Kiều T3 đưa tiền cho M2 (không rõ lai lịch) đi lấy và trả công 200.000 đồng. Lúc này, T4 điện thoại đặt mua 40 gam Methamphetamine của Đặng Thị Kiều T3 rồi hẹn địa điểm giao ma túy, sau đó trên đường đi giao ma túy, Đặng Anh T bị công an bắt quả tang. Khi xem camera thấy Công an đến kiểm tra nơi ở, Phan Hữu T2 đã ném ma túy vào bồn cầu để phi tang.

Do Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện C không thu được ma túy và không có chứng cứ khác chứng minh hành vi phạm tội của Đặng Thị Kiều T3 và Phan Hữu T2, nên không áp dụng biện pháp ngăn chặn đối với Phan Hữu T2 và Đặng Thị Kiều T3, mà giải tỏa cho về. Sau đó chuyển vụ án cho Cơ quan Cảnh sát Điều tra (PC04) - Công an Thành phố Hồ Chí Minh để điều tra, xử lý theo thẩm quyền.

Cơ quan Cảnh sát Điều tra - Công an Thành phố Hồ Chí Minh đã nhiều lần triệu tập Phan Hữu T2 và Đặng Thị Kiều T3 để điều tra làm rõ nhưng cả hai không đến. Qua xác minh tại địa phương, Đặng Thị Kiều T3 và Phan Hữu T2 không còn ở tại các nơi cư trú, cả hai bỏ đi đâu không rõ. Ngày 27/02/2019, Cơ quan Cảnh sát Điều tra đã ra thông báo truy tìm Đặng Thị Kiều T3 và Phan Hữu T2 là hai đối tượng có liên quan đến vụ án, tiếp tục củng cố chứng cứ nếu đủ cơ sở sẽ xem xét xử lý sau.

Đối với Nguyễn Phi L và Nguyễn Ngọc N không liên quan đến vụ án, nhưng có sử dụng trái phép chất ma túy. Công an huyện C không lập hồ sơ xử lý mà yêu cầu Công an phường HT, quận M xử phạt hành chính theo quy định.

Đối với T4, M1, M2… do Đặng Anh T khai không rõ lai lịch nên Cơ quan Cảnh sát Điều tra - Công an Thành phố Hồ Chí Minh không có cơ sở xác minh làm rõ để xử lý.

Vật chứng của vụ án: đã được liệt kê tại Phiếu nhập kho vật chứng của Phòng Cảnh sát điều tra (PC04) và Phòng Cảnh sát thi hành án hình sự và hỗ trợ tư pháp (PC10), Công an Thành phố Hồ Chí Minh, gồm có:

1. Thu giữ của Đặng Anh T:

- 01 gói ma túy còn lại sau giám định, đã được niêm phong bên ngoài đánh số 1454/18 gói (1) có chữ ký của Giám định viên Huỳnh Thanh T5 và Điều tra viên Bành Trọng H;

- 01 điện thoại di động hiệu Iphone, số IMEI: 354410066099055 và 01 sim điện thoại có số trên sim là 98900;

- 01vỏ bao thuốc lá hiệu JET;

- Xe hai bánh gắn máy, nhãn hiệu: Honda, loại xe: 02 bánh, số loại: Airblade biển số: 62K1- 254.84, số khung: RLHJFG302FZ106407, số máy: JF63E- 1106436 do Trần Văn T6 đứng tên chủ sở hữu, nhưng năm 2000 ông Trần Văn T6 đã bán nhà đi đâu không rõ. Ngày 27/8/2018, Đặng Thị Kiều T3 đưa cho Đặng Anh T sử dụng để đi giao ma túy cho T4. Cơ quan Cảnh sát Điều tra - Công an Thành phố Hồ Chí Minh đã gửi Công văn đến Ban biên tập báo Công an Thành phố Hồ Chí Minh và Cổng thông tin điện tử Công an Thành phố Hồ Chí Minh để đăng báo tìm chủ sở hữu hợp pháp.

2. Thu giữ của Phan Hữu T2:

- 01 gói ma túy còn lại sau giám định, đã được niêm phong bên ngoài đánh số 1454/18 gói (2) có chữ ký của Giám định viên Huỳnh Thanh T5 và Điều tra viên Bành Trọng H.

- 01 điện thoại di động hiệu Iphone, model A1687FCC, ID: BCG-E2944A, IC: 579C-E2944A; 01 máy tính bảng hiệu Ipad, model: A1893FCC, ID: BCGA1893, IC: 579C-A1893, Serial: DMPWKDUMJMVR;

- Nhiều bịch nylon;

- 01 máy ép màu xanh, có ghi chữ FS PLASTIC FILM SEALER, 01 kéo kẹp; 01 kéo cắt bằng kim loại, 01 cân điện tử màu xanh có ghi chữ MILD SEVEN;

3. Thu giữ của Đặng Thị Kiều T3: 01 điện thoại di động Oppo màu đỏ.

Tại bản Cáo trạng số 402/CT-VKS-P1 ngày 26/9/2019 của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố bị cáo Đặng Anh T về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 3 Điều 251 Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa sơ thẩm:

Bị cáo Đặng Anh T thừa nhận hành vi phạm tội của mình và xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị áp dụng điểm b khoản 3, khoản 5 Điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo Đặng Anh T 15 năm đến 16 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, phạt bổ sung bị cáo số tiền 5.000.000 đồng. Về xử lý vật chứng của vụ án đề nghị Hội đồng xét xử xử lý theo quy định của pháp luật.

Luật sư bào chữa cho bị cáo trình bày: Đồng ý với tội danh và điều luật mà Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh truy tố đối với bị cáo Đặng Anh T. Tuy nhiên, đề nghị Hội đồng xét xử xem giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo do bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo phạm tội lần đầu, hoàn cảnh gia đình bị cáo khó khăn.

Ý kiến tranh luận của đại diện Viện kiểm sát cho rằng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, mức hình phạt đã luận tội là phù hợp và giữ nguyên quan điểm luận tội.

Lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo đã ăn năn, hối cải về hành vi của mình, mong Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Điều tra Công an Thành phố Hồ Chí Minh, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng Hình sự.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Đặng Anh T không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Căn cứ vào lời khai nhận tội của bị cáo Đặng Anh T tại phiên tòa cũng như các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, có cơ sở xác định: Khoảng 19 giờ 30 phút ngày 27/8/2018, Đội Cảnh sát Điều tra tội phạm về ma túy - Công an huyện C tiến hành kiểm tra Đặng Anh T đang ngồi trên xe môtô biển số 62K1- 254.84 tại trước số nhà B4/17A Quốc lộ 1A, ấp B, xã T, huyện C, trong túi quần bên trái phía trước của Đặng Anh T có 01 vỏ bao thuốc lá hiệu Jet bên trong có 01 gói nylon chứa tinh thể không màu, qua giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 32,0609 gam loại Methamphetamine, theo Kết luận giám định số 1454/KLGĐ-H ngày 04/9/2018 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an Thành phố Hồ Chí Minh. Đặng Anh T khai nhận ma túy này do Đặng Thị Kiều T3 và Phan Hữu T2 nhờ Đặng Anh T đi bán; lực lượng Công an đã tiến hành lập biên bản phạm tội quả tang đối với Đặng Anh T.

Hành vi của bị cáo Đặng Anh T đã cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma túy” và phải chịu trách nhiệm hình sự với khối lượng ma túy bị thu giữ là 32,0609 gam loại Methamphetamine, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm b khoản 3 Điều 251 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017. Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh truy tố bị cáo theo tội danh và điều luật trên là có căn cứ, đúng pháp luật.

Hành vi phạm tội của bị cáo là đặc biệt nghiêm trọng và rất nguy hiểm cho xã hội, đã xâm hại chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy, xâm phạm trật tự an toàn xã hội, là nguyên nhân làm phát sinh các loại tội phạm và tệ nạn xã hội khác, gây tác hại xấu đến nhiều mặt của đời sống xã hội. Bị cáo nhận thức rõ hành vi phạm tội của mình sẽ bị pháp luật trừng phạt, nhưng đã bất chấp hậu quả, nên cần có mức án nghiêm khắc đối với bị cáo nhằm cải tạo giáo dục riêng đối với bị cáo và răn đe phòng ngừa tội phạm chung cho xã hội. Đồng thời, đồng thời cần áp dụng khoản 5 Điều 251 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017, phạt bị cáo số tiền 5.000.000 đồng nộp sung công quỹ Nhà nước.

[3] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự, hoàn cảnh gia đình bị cáo khó khăn, đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tuy nhiên, hành vi của bị cáo là đặc biệt nghiêm trọng nên cần phải xử phạt nghiêm tương xứng với tính chất, hành vi phạm tội của bị cáo, áp dụng hình phạt tù có thời hạn, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhất định nhằm đảm bảo tác dụng cải tạo, giáo dục riêng và răn đe, phòng ngừa chung cho xã hội.

Đối với các đối tượng tên T4, M1, M2 là những người liên quan đến việc mua bán ma túy trong vụ án này, do Đặng Anh T khai không rõ lai lịch nên không có căn cứ xử lý.

[5] Đối với hai đối tượng Đặng Thị Kiều T3 và Phan Hữu T2: Quá trình điều tra, qua lời khai của Đặng Anh T và lời khai của Đặng Thị Kiều T3, Phan Hữu T2 có cơ sở xác định chính Đặng Thị Kiều T3 và Phan Hữu T2 là những đối tượng chủ chốt thực hiện hành vi mua và bán ma túy từ các đối tượng tên T4, M1, M2; Đặng Thị Kiều T3, Phan Hữu T2 là người đã kêu Đặng Anh T đi giao, nhận ma túy và trả tiền công cho Đặng Anh T. Tuy việc khám xét nơi ở của Đặng Thị Kiều T3 và Phan Hữu T2 không thu được ma túy, nhưng cần xem xét một cách khách quan, để giải quyết một cách toàn diện đối với vụ án, không bỏ lọt tội phạm, nên Hội đồng xét xử kiến nghị Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an Thành phố Hồ Chí Minh và Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh tiếp tục điều tra làm rõ đối với hành vi của Đặng Thị Kiều T3 và Phan Hữu T2, nếu đủ căn cứ thì xử lý theo quy định pháp luật.

[6] Về vật chứng của vụ án:

- Đối với 01 gói ma túy còn lại sau giám định, đã được niêm phong bên ngoài đánh số 1454/18 gói (1) có chữ ký của Giám định viên Huỳnh Thanh T5 và Điều tra viên Bành Trọng H; 01 vỏ bao thuốc lá hiệu JET; 01 sim điện thoại có số trên sim là 98900 là vật cấm lưu hành, không còn giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy.

- Đối với 01 điện thoại di động hiệu Iphone, số IMEI: 354410066099055 liên quan đến hành vi phạm tội nên tịch thu sung công quỹ Nhà nước.

- Đối với 01 xe hai bánh gắn máy, nhãn hiệu: Honda, loại xe: 02 bánh, số loại: Airblade biển số: 62K1- 254.84, số khung: RLHJFG302FZ106407, số máy: JF63E-1106436 do Trần Văn T6 đứng tên chủ sở hữu nhưng năm 2000 ông Trần Văn T6 đã bán nhà đi đâu không rõ. Ngày 27/8/2018, Đặng Thị Kiều T3 đưa cho Đặng Anh T sử dụng để đi giao ma túy cho T4. Do chưa xác định được chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp, nên cần đăng thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng tìm chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp đối với chiếc xe trên, hết thời hạn thông báo mà không tìm được chủ sở hữu thì tịch thu sung công quỹ Nhà nước.

- Đối với các vật chứng thu giữ của Phan Hữu T2 và Đặng Thị Kiều T3 gồm: 01 gói ma túy còn lại sau giám định, đã được niêm phong bên ngoài đánh số 1454/18 gói (2) có chữ ký của Giám định viên Huỳnh Thanh T5 và Điều tra viên Bành Trọng H; 01 điện thoại di động hiệu Iphone, model A1687FCC, ID: BCG- E2944A, IC: 579C-E2944A; 01 máy tính bảng hiệu Ipad, model: A1893FCC, ID: BCGA1893, IC: 579C-A1893, Serial: DMPWKDUMJMVR; nhiều bịch nylon; 01 máy ép màu xanh, có ghi chữ FS PLASTIC FILM SEALER, 01 kéo kẹp; 01 kéo cắt bằng kim loại, 01 cân điện tử màu xanh có ghi chữ MILD SEVEN; 01 điện thoại di động Oppo màu đỏ. Giao lại cho Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an Thành phố Hồ Chí Minh quản lý để xác minh xử lý đối với Phan Hữu T2 và Đặng Thị Kiều T3.

[7] Về án phí: Bị cáo Đặng Anh T phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

- Áp dụng điểm b khoản 3, khoản 5 Điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Đặng Anh T 15 (mười lăm) năm tù, về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù tính từ ngày 27/8/2018.

Buộc bị cáo Đặng Anh T nộp phạt số tiền 5.000.000 (năm triệu) đồng để sung quỹ Nhà Nước.

- Áp dụng Điều 46; Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

Tịch thu tiêu hủy: 01 gói ma túy còn lại sau giám định, đã được niêm phong bên ngoài đánh số 1454/18 gói (1) có chữ ký của Giám định viên Huỳnh Thanh T5 và Điều tra viên Bành Trọng H; 01 vỏ bao thuốc lá hiệu JET; 01 sim điện thoại có số trên sim là 98900.

Tịch thu sung quỹ Nhà nước 01 điện thoại di động hiệu Iphone, số IMEI: 354410066099055.

Giao Cục Thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh đăng thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng trong thời hạn 06 tháng theo quy định của pháp luật để tìm chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp 01 chiếc 01 xe hai bánh gắn máy, nhãn hiệu: Honda, loại xe: 02 bánh, số loại: Airblade biển số: 62K1- 254.84, số khung: RLHJFG302FZ106407, số máy: JF63E-1106436. Hết thời hạn nêu trên, nếu không xác định được chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp thì tịch thu xe sung công quỹ nhà nước.

(Theo Biên bản giao nhận tang tài vật số 41/20 ngày 01/11/2019 của Cục Thi hành án Dân sự Thành phố Hồ Chí Minh).

Kiến nghị Cơ quan Điều tra Công an Thành phố Hồ Chí Minh tiếp tục điều tra để làm rõ hành vi của Phan Hữu T2 và Đặng Thị Kiều T3.

Chuyển các vật chứng thu giữ của Phan Hữu T2 và Đặng Thị Kiều T3 gồm:

01 gói ma túy còn lại sau giám định, đã được niêm phong bên ngoài đánh số 1454/18 gói (2) có chữ ký của Giám định viên Huỳnh Thanh T5 và Điều tra viên Bành Trọng H; 01 điện thoại di động hiệu Iphone, model A1687FCC, ID: BCG- E2944A, IC: 579C-E2944A; 01 máy tính bảng hiệu Ipad, model: A1893FCC, ID: BCGA1893, IC: 579C-A1893, Serial: DMPWKDUMJMVR; nhiều bịch nylon;

01 máy ép màu xanh, có ghi chữ FS PLASTIC FILM SEALER, 01 kéo kẹp; 01 kéo cắt bằng kim loại, 01 cân điện tử màu xanh có ghi chữ MILD SEVEN; 01 điện thoại di động Oppo màu đỏ cho Cơ quan Cảnh sát Điều tra - Công an Thành phố Hồ Chí Minh quản lý và xử lý khi làm rõ hành vi của Phan Hữu T2 và Đặng Thị Kiều T3.

Bị cáo Đặng Anh T phải nộp 200.000 (hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo Đặng Anh T được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày tính kể từ ngày tuyên án. Phan Hữu T2 và Đặng Thị Kiều T3 được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày tính kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

122
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 497/2019/HS-ST ngày 27/11/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:497/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về