Bản án 497/2018/HS-ST ngày 07/12/2018 về tội cướp giật tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 497/2018/HS-ST NGÀY 07/12/2018 VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN

Ngày 07 tháng 12 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 660/2018/HSST ngày 02 tháng 11 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 5837/2018/QĐXXST-HS ngày 26 tháng 11 năm 2018, đối với các bị cáo:

1. Trần Tuấn K; sinh năm: 1999, tại Thành phố Hồ Chí Minh; thường trú: 28/53 đường T, Phường M, Quận N, Thành phố H; tạm trú: TK6/25 đường V, Phường C, Quận M, Thành phố H; nghề nghiệp: không có; trình độ văn hóa (học vấn): 5/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Tuấn D và bà Nguyễn Thị Tuyết N; tiền sự: không có; tiền án: ngày 11/3/2016, bị Tòa án nhân dân Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 01 năm 06 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” (theo Bản án số 69/2016/HSST); bị bắt, tạm giam ngày: 14/6/2018; Có mặt.

2. Đào Minh P; sinh ngày: 07/11/2000, tại Thành phố Hồ Chí Minh; thường trú: 84/1 đường B, Phường P, Quận M, Thành phố H; tạm trú: không nơi cư trú nhất định; nghề nghiệp: không có; trình độ văn hóa (học vấn): 6/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đào Thanh H và bà Lê Thị Kim P; tiền sự: không có; tiền án: không có; bị bắt, tạm giam ngày: 14/6/2018; Có mặt.

Ngưi bào chữa cho bị cáo Đào Minh P: Ông Đặng Minh Tuyền, Luật sư Văn phòng luật sư Minh Tuyền thuộc Đoàn Luật sư Thành phố Hồ Chí Minh; Có mặt.

- Bị hại: Chị K. F. P (quốc tịch Philippines), sinh năm: 1994;

Nơi lưu trú tại Việt Nam: Khách sạn H; số 7/12 đường N, Phường B, Quận M, Thành phố H; Vắng mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

1. Chị Phan Thị Ngọc T, sinh năm: 1993; Nơi cư trú: 129F/138/62A đường B, Phường S, Quận T, Thành phố H; Vắng mặt.

2. Anh Phạm Hoàng N, sinh năm: 1998; Nơi cư trú: 1942/113 đường H, thị trấn N, huyện NB, Thành phố H; Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 13 giờ 30 phút ngày 14/6/2018, bị cáo K điều khiển xe mô tô hai bánh hiệu Exciter biển số 59D1-055.81 chở bị cáo P đi đến khu vực Công viên 23/9, Quận 1. Tại đây, khi thấy chị K. F. P đang đi bộ trên lề đường (đối diện nhà số 199 đường Phạm Ngũ Lão, Phường Phạm Ngũ Lão, Quận 1) và trên tay có cầm chiếc điện thoại di động thì bị cáo K rủ bị cáo P cùng chiếm đoạt chiếc điện thoại. Sau khi bị cáo P đồng ý, bị cáo K điều khiển xe chạy lên áp sát vào bên trái để bị cáo P ngồi sau dùng tay phải chiếm đoạt chiếc điện thoại di động trên chị K. F. P rồi tăng ga xe bỏ chạy. Lúc này có các trinh sát thuộc Công an Quận 1 đang tuần tra phát hiện liền đuổi theo, đến giao lộ Trần Đình Xu - Trần Hưng Đạo thì bắt giữ được các bị cáo cùng phương tiện, tang vật. Sau đó, vụ việc được chuyển cho cơ quan điều tra xử lý theo quy định.

Tài sản mà các bị cáo đã chiếm đoạt của chị K. F. P là chiếc điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy Note 5 đã qua sử dụng, theo kết luận định giá thì tài sản này trị giá 4.797.000 đồng. Cơ quan điều tra đã khởi tố vụ án, khởi tố bị can đối với Trần Tuấn K và Đào Minh P về hành vi chiếm đoạt tài sản, tại cơ quan công an các bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội như trên.

Đồng thời, các bị cáo còn khai nhận vào trưa ngày 04/6/2018 cũng với thủ đoạn tương tự, các bị cáo đã chiếm đoạt được 01 chiếc điện thoại di động của một nam thanh niên trước cổng Trường Chu Văn An, Phường Phạm Ngũ Lão, Quận 1. Cơ quan điều tra đã đăng báo truy tìm nhưng chưa tìm được bị hại; Công an Phường Phạm Ngũ Lão, Quận 1 cũng không có tiếp nhận tin báo bị hại bị chiếm đoạt tài sản vào ngày 04/6/2018 như các bị cáo khai nhận. Do đó, cơ quan điều tra không đủ cơ sở xử lý đối với các bị cáo về hành vi này.

Bản Cáo trạng số 457/CT-VKS-P2 ngày 30 tháng 10 năm 2018, Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố các bị cáo Trần Tuấn K, Đào Minh P tội danh “Cướp giật tài sản” theo điểm d khoản 2 Điều 171 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tại phiên tòa,

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh trình bày lời luận tội, giữ quan điểm như truy tố, nêu lên các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ và đề nghị mức hình phạt đối với bị cáo K từ 04 năm đến 05 năm tù, đối với bị cáo P từ 02 năm đến 02 năm 06 tháng tù và đề nghị hướng xử lý vật chứng, tài sản đã thu giữ theo quy định. Về trách nhiệm dân sự, bị hại - chị K. F. P - đã được giao trả lại tài sản bị chiếm đoạt và không có yêu cầu bồi thường, nên đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét.

- Người bào chữa cho bị cáo Đào Minh P trình bày: thống nhất về tội danh và điều khoản mà Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh truy tố đối với bị cáo. Đồng thời nêu lên các tình tiết giảm nhẹ như: “phạm tội nhưng gây thiệt hại không lớn”; “thành khẩn khai báo”; “ăn năn hối cải”; bị cáo thiếu sự quan tâm giáo dục của gia đình; có nhân thân tốt, đây là lần đầu phạm tội; lúc phạm tội do chưa đủ 18 tuổi nên nhận thức của bị cáo có phần hạn chế; đề nghị xử phạt bị cáo mức án thấp nhất.

- Các bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội như nội dung cáo trạng nêu và xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và bị hại không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai nhận của các bị cáo Trần Tuấn K, Đào Minh P phù hợp với các lời khai tại cơ quan điều tra, những chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Do đó, có đủ cơ sở để xác định, vào khoảng 13 giờ 30 phút ngày 14/6/2018, tại trước khu vực Công viên 23/9 (đối diện nhà số 199 đường Phạm Ngũ Lão, Phường Phạm Ngũ Lão, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh), bị cáo K đã có hành vi điều khiển xe mô tô hai bánh áp sát vào chị K. F. P - đang đi bộ phía trước cùng chiều - để bị cáo P ngồi sau dùng tay chiếm đoạt chiếc điện thoại di động trên tay của chị K. F. P, rồi nhanh chóng tăng ga xe bỏ chạy nhưng đã bị bắt giữ. Tài sản mà các bị cáo đã cùng nhau chiếm đoạt là một chiếc điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy Note 5, đã qua sử dụng; theo Kết luận định giá tài sản số 189/KL-HĐĐGTS ngày 28/6/2018 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự, thì chiếc điện thoại này trị giá 4.797.000 đồng.

[3] Thủ đoạn công khai, bất ngờ giật lấy tài sản của người khác có giá trị như nêu trên, rồi nhanh chóng tẩu thoát mà các bị cáo thực hiện đã thỏa mãn đầy đủ các yếu tố cấu thành tội “Cướp giật tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại Điều 171 của Bộ luật Hình sự. Đồng thời, thì hành vi dùng mô tô, xe máy để thực hiện việc cướp giật tài sản là tình tiết “dùng thủ đoạn nguy hiểm”. Do đó, Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh truy tố các bị cáo tội danh “Cướp giật tài sản” theo điểm d khoản 2 Điều 171 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017) là đúng quy định.

[4] Hành vi của các bị cáo đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản hợp pháp của người khác, cố ý cùng thực hiện tội phạm nên hành vi phạm tội của các bị cáo mang tính đồng phạm. Các bị cáo có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự và ý thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật, gây nguy hiểm cho xã hội nhưng vẫn cố ý thực hiện nên có lỗi cố ý trực tiếp; vì vậy, các bị cáo phải chịu hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ của hành vi phạm tội.

[5] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: ngày 11/3/2016, bị cáo K đã bị Tòa án nhân dân Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 01 năm 06 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” (theo Bản án số 69/2016/HSST), bị cáo chấp hành xong hình phạt tù ngày 03/8/2016; như vậy, bị cáo K đã bị kết án, chưa được xóa án tích mà lại tiếp tục phạm tội rất nghiêm trọng do cố ý, nên phải chịu tình tiết tăng nặng là “tái phạm ”. Mặt khác, trong vụ án này, tại thời điểm phạm tội và bị bắt quả tang, bị cáo K là người rủ rê bị cáo P (chưa đủ 18 tuổi) phạm tội, nên bị cáo K phải chịu tình tiết tăng nặng là “xúi giục người dưới 18 tuổi phạm tội”. Những tình tiết tăng nặng vừa nêu được quy định tại các điểm h, o khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017).

[6] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: những tình tiết giảm nhẹ mà người bào chữa cho bị cáo P nêu ra là có căn cứ nên được chấp nhận. Các bị cáo được áp dụng các tình tiết giảm nhẹ là “phạm tội nhưng gây thiệt hại không lớn”, vì tài sản bị chiếm đoạt đã được thu hồi trả lại cho người bị hại; “thành khẩn khai báo”, “ăn năn hối cải”. Những tình tiết giảm nhẹ này được quy định tại các điểm h, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017). Đồng thời, khi phạm tội bị cáo P chưa đủ 18 tuổi, nên được áp dụng chính sách hình sự đặc biệt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội được quy định tại Điều 91, Điều 101 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017).

[7] Về xử lý vật chứng, tài sản thu giữ trong vụ án và trách nhiệm dân sự:

- 01 điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy Note 5: là tài sản bị chiếm đoạt, đã được thu hồi trả lại cho bị hại - chị K. F. P, việc giao trả này là đúng. Đồng thời, bị hại không có yêu cầu bồi thường thiệt hại, nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

- 01 điện thoại di động hiệu Nokia 105 màu đen, 01 áo sơ mi dài tay màu đen, 01 quần dài màu xám thu giữ của bị cáo P: đây là các đồ dùng cá nhân và tài sản của bị cáo, không liên quan trực tiếp đến hành vi phạm tội nên trả lại.

- 01 áo thun ngắn tay màu đen, 01 quần jean lửng màu xanh thu giữ của bị cáo K: đây là các đồ dùng cá nhân của bị cáo, không liên quan trực tiếp đến hành vi phạm tội nên trả lại.

- 01 điện thoại di động hiệu Oppo F1 màu vàng thu giữ của bị cáo K: chiếc điện thoại này bị cáo K mượn của chị Trân sử dụng, không liên quan đến hành vi phạm tội nên trả lại cho chị Trân.

- 01 xe mô tô hai bánh hiệu Yamaha Exciter, biển số 59D1-055.81: chiếc xe này chị Phan Thị Ngọc T khai mua và đưa bị cáo K sử dụng nhưng không có chứng cứ chứng minh và lời khai về nguồn gốc xe không hợp lý. Qua giám định, xác định được là biển số giả; số khung, số máy đã bị mài sâu đục lại, không xác định được số nguyên thủy. Qua điều tra, xác định được chiếc xe mô tô hai bánh hiệu Yamaha Exciter, biển số 59D1-055.81 do ông Lê Xuân T - sinh năm: 1966; địa chỉ: 111/3 khu phố 1, phường T, Quận B, Thành phố H-đứng tên chủ sở hữu; ông T khai đã ủy quyền sử dụng, định đoạt cho ông Nguyễn Văn Đ - sinh năm: 1957; địa chỉ: 78/19 đường Đ, Phường C, Quận T, Thành phố H. Sau đó ông Đ ủy quyền lại cho anh Phạm Hoàng N, anh N xác nhận vẫn đang sử dụng chiếc xe này. Xét thấy, xe mô tô hai bánh hiệu Yamaha Exciter, biển số 59D1-055.81 thu giữ trong vụ án có nguồn gốc không hợp pháp, được các bị cáo sử dụng vào việc phạm tội nên tịch thu sung vào ngân sách nhà nước.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào điểm d khoản 2 Điều 171; các điểm h, s khoản 1 Điều 51; các điểm h, o khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017) đối với bị cáo Trần Tuấn K;

Căn cứ vào điểm d khoản 2 Điều 171; các điểm h, s khoản 1 Điều 51; Điều 91, Điều 101 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017) đối với bị cáo Đào Minh P;

Tuyên bố các bị cáo Trần Tuấn K, Đào Minh P phạm tội “Cướp giật tài sản”.

Xử phạt bị cáo Trần Tuấn K 04 (bốn) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 14/6/2018.

Xử phạt bị cáo Đào Minh P 02 (hai) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 14/6/2018.

2. Căn cứ vào Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017); Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;

- Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước: 01 xe mô tô hai bánh hiệu Yamaha Exciter, biển số 59D1-055.81 (biển số giả; số khung, số máy đã bị mài sâu đục lại, không xác định được số nguyên thủy).

- Trả lại cho bị cáo Trần Tuấn K: 01 áo thun ngắn tay màu đen, 01 quần jean lửng màu xanh.

- Trả lại cho bị cáo Đào Minh P: 01 điện thoại di động hiệu Nokia 105 màu đen, 01 áo sơ mi dài tay màu đen, 01 quần dài màu xám.

- Trả lại cho chị Phan Thị Ngọc T: 01 điện thoại di động hiệu Oppo F1 màu vàng.

3. Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; các điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Án phí hình sự sơ thẩm mỗi bị cáo phải chịu là 200.000 đồng.

4. Căn cứ vào Điều 331, Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;

Các bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

148
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 497/2018/HS-ST ngày 07/12/2018 về tội cướp giật tài sản

Số hiệu:497/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 07/12/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về