Bản án 496/2018/HS-ST ngày 07/12/2018 về tội cướp giật tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 496/2018/HS-ST NGÀY 07/12/2018 VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN

Ngày 07 tháng 12 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 621/2018/HSST ngày 17 tháng 10 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 5836/2018/QĐXXST-HS ngày 22 tháng 11 năm 2018, đối với bị cáo:

Phạm Quốc T; sinh năm: 1991, tại Thành phố Hồ Chí Minh; thường trú: 48/8 đường C, Phường C, Quận M, Thành phố H; tạm trú: không nơi cư trú nhất định; nghề nghiệp: không có; trình độ văn hóa (học vấn): 5/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Quốc H (chết) và bà Lê Thị D; tiền sự: không có; tiền án: không có; nhân thân: ngày 28/01/2013, bị Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 03 năm tù về tội “Cướp giật tài sản” (theo Bản án số 45/2013/HSST); bị bắt, tạm giam ngày: 08/6/2018; Có mặt.

- Bị hại: Chị T. B. Y (quốc tịch Mỹ), sinh năm: 1996;

Nơi lưu trú tại Việt Nam: 328 đường V, Phường C, Quận M, Thành phố H; Vắng mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

1. Ông Trương Ngọc Q, sinh năm: 1972;

Nơi cư trú: 382/36/20/3 khu phố 6, đường H, thị trấn N, huyện N, Thành phố H; Vắng mặt.

2. Chị Trương Thụy V, sinh ngày: 09/01/1999;

Nơi cư trú: 382/36/20/3 khu phố 6, đường H, thị trấn N, huyện N, Thành phố H; Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 15 giờ ngày 06/6/2018, bị cáo điều khiển xe mô tô hai bánh biển số 54T4-XXYY lưu thông trên đường Trần Hưng Đạo, Quận 1. Khi đến trước nhà số 301F Trần Hưng Đạo, Quận 1 thì trông thấy chị T. B. Y đang đi bộ trên lề đường cùng chiều phía trước có đeo một túi xách màu nâu bên hông phải. Nảy sinh ý định chiếm đoạt tài sản, bị cáo điều khiển xe áp sát vào bên phải, dùng tay trái chiếm đoạt chiếc túi xách của chị T. B. Y rồi tăng ga bỏ chạy về nhà số 342 đường N, Quận M. Tại đây, bị cáo cùng vợ là Trương Thụy V mở túi xách kiểm tra, phát hiện bên trong có: 01 điện thoại di động hiệu Iphone 6S, 40 USD, khoảng gần 1.000.000 đồng tiền Việt Nam, 01 cây bút bi và một số giấy tờ. V đưa điện thoại, tiền, giấy tờ cho bị cáo giữ, còn túi xách và bút bi V để lại trong nhà. Sau khi tiêu xài hết số tiền, bị cáo cùng V đi tìm nơi bán điện thoại di động, trên đường đi bị cáo kêu V ném bỏ số giấy tờ. Khi cả hai đang bán chiếc điện thoại di động cho cửa hàng điện thoại di động Đông Phương - địa chỉ: 192 đường Đoàn Văn Bơ, Phường 9, Quận 4 - thì bị các trinh sát công an kiểm tra, đưa về trụ sở làm việc. Tại cơ quan công an, bị cáo đã khai nhận hành vi chiếm đoạt tài sản như nêu trên.

Theo Kết luận định giá, thì tổng giá trị các tài sản mà bị cáo đã chiếm đoạt chiếc của chị T. B. Y là 6.180.000 đồng. Cơ quan điều tra đã khởi tố vụ án, khởi tố bị can đối với Phạm Quốc T về hành vi chiếm đoạt tài sản. Đồng thời, tại cơ quan điều tra bị cáo khai nhận là không có nói cho Trương Thụy V nghe về việc chiếm đoạt tài sản người khác; V cũng khai là không biết chiếc túi xách cùng các tài sản bên trong mà bị cáo mang về nhà là do phạm tội mà có, nên cơ quan điều tra chưa đủ cơ sở để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với Trương Thụy V.

Bản Cáo trạng số 429/CTr-VKS-P2 ngày 15 tháng 10 năm 2018, Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố bị cáo Phạm Quốc T tội danh “Cướp giật tài sản” theo điểm d khoản 2 Điều 171 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tại phiên tòa,

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh trình bày lời luận tội, giữ quan điểm như truy tố, nêu lên các tình tiết giảm nhẹ và đề nghị mức hình phạt đối với bị cáo từ 04 năm đến 05 năm tù. Về trách nhiệm dân sự, bị hại - chị T. B. Y - đã được giao trả lại tài sản bị chiếm đoạt và không có yêu cầu bồi thường, nên đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét.

- Bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội như nội dung cáo trạng nêu và xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và bị hại không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai nhận của bị cáo Phạm Quốc T phù hợp với các lời khai tại cơ quan điều tra, những chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Do đó, có đủ cơ sở để xác định, vào khoảng 15 giờ ngày 06/6/2018, tại trước nhà số 301F đường Trần Hưng Đạo, Phường Cô Giang, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh, bị cáo đã có hành vi điều khiển xe mô tô hai bánh áp sát và dùng tay chiếm đoạt chiếc túi xách trên tay của chị T. B. Y, rồi nhanh chóng tăng ga xe bỏ chạy. Tài sản mà bị cáo đã chiếm đoạt là một chiếc túi xách, bên trong có: 01 điện thoại di động hiệu Iphone 6S đã qua sử dụng, 40 USD, khoảng 1.000.000 đồng tiền Việt Nam, 01 cây bút bi và một số giấy tờ cá nhân; theo Kết luận định giá tài sản số 185/KL-HĐĐGTS ngày 22/6/2018 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự và các thông tin khác, thì tổng giá trị các tài sản mà bị cáo đã chiếm đoạt của chị T. B. Y là 6.180.000 đồng.

[3] Thủ đoạn công khai, bất ngờ giật lấy tài sản của người khác có giá trị như nêu trên, rồi nhanh chóng tẩu thoát mà bị cáo thực hiện đã thỏa mãn đầy đủ các yếu tố cấu thành tội “Cướp giật tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại Điều 171 của Bộ luật Hình sự. Đồng thời, thì hành vi dùng mô tô, xe máy để thực hiện việc cướp giật tài sản là tình tiết “dùng thủ đoạn nguy hiểm”. Do đó, Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh truy tố bị cáo tội danh “Cướp giật tài sản” theo điểm d khoản 2 Điều 171 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017) là đúng quy định.

[4] Hành vi của bị cáo đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản hợp pháp của người khác. Bị cáo có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự và ý thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật, gây nguy hiểm cho xã hội nhưng vẫn cố ý thực hiện nên có lỗi cố ý trực tiếp. Vì vậy, bị cáo phải chịu hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ của hành vi phạm tội. Mặt khác, ngày 28/01/2013 bị cáo đã bị Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 03 năm tù về tội “Cướp giật tài sản” (theo Bản án số 45/2013/HSST), tuy đã được xóa án tích nhưng Hội đồng xét xử vẫn xem đây là nhân thân của bị cáo để quyết định hình phạt.

[5] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: bị cáo được áp dụng các tình tiết giảm nhẹ là “phạm tội nhưng gây thiệt hại không lớn” vì tài sản bị chiếm đoạt đã được thu hồi trả lại cho người bị hại; “thành khẩn khai báo”. Những tình tiết giảm nhẹ này được quy định tại các điểm h, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017).

[6] Về xử lý vật chứng, tài sản thu giữ trong vụ án và trách nhiệm dân sự:

- Bị hại - chị T. B. Y - đã được giao trả lại tài sản bị chiếm đoạt và không có yêu cầu bồi thường thiệt hại, nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

- 01 xe mô tô hai bánh biển số 54T4-XXYY, là phương tiện được bị cáo sử dụng vào việc phạm tội: chiếc xe này thuộc sở hữu của ông Trương Ngọc Q, ông Q không biết và không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo, nên việc cơ quan điều tra trả lại xe cho ông Q là đúng.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào điểm d khoản 2 Điều 171; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017);

Tuyên bố bị cáo Phạm Quốc T phạm tội “Cướp giật tài sản”.

Xử phạt bị cáo Phạm Quốc T 03 (ba) năm 09 (chín) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 08/6/2018.

2. Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; các điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; Án phí hình sự sơ thẩm bị cáo phải chịu là 200.000 đồng.

3. Căn cứ vào Điều 331, Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

179
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 496/2018/HS-ST ngày 07/12/2018 về tội cướp giật tài sản

Số hiệu:496/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 07/12/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về