Bản án 494/2020/HSST ngày 29/12/2020 về tội giết người

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ H 

BẢN ÁN 494/2020/HSST NGÀY 29/12/2020 VỀ TỘI GIẾT NGƯỜI 

Ngày 29/12/2020, tại Trụ sở Toà án nhân dân thành phố H xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 376/2020/TL.HSST ngày 09/10/2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 485/2020/QĐXXST-HS ngày 07/12/2020 đối với bị cáo:

Nguyễn Huy T1 sinh ngày 10/8/1999 tại thành phố H; Hộ khẩu thường trú và chỗ ở: Cụm 13, thôn Vĩnh N, xã Vĩnh Q, huyện T, thành phố H ;Giới tính: nam; Nghề nghiệp: không; Trình độ học vấn: 06/12; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không; Con ông Nguyễn Huy Th (đã chết) và bà Nhân Thị Ph; Danh chỉ bản số 000000138, lập ngày 28/02/2019 tại Công an huyện T, thành phố H; Tiền án, tiền sự: không; Bắt để tạm giam ngày 31/3/2020; Hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam số 2 Công an thành phố H; Có mặt.

- Người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Huy T1 tại phiên tòa: Luật sư Nguyễn Ánh Th - Văn phòng luật sư Nguyễn A thuộc Đ luật sư thành phố H; Có mặt.

- Bị hại: Anh Nguyễn Hữu Th1, sinh năm 1997; Cư trú: Thôn Vĩnh N, xã Vĩnh Q, huyện T, thành phố H; Có mặt.

- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Ông Nguyễn Huy Đ1, sinh năm 1950; Cư trú: Cụm 13, thôn Vĩnh N, xã Vĩnh Q, huyện T T, thành phố H; Có mặt.

- Người làm chứng:

1, Chị Trần Thúy M, sinh năm 1995; Cư trú: Thôn Vĩnh N, Vĩnh Q, huyện T, thành phố H; Có mặt.

2, Nguyễn Đ1 Th2, sinh năm 1990; Cư trú: Thôn Huỳnh C, xã Tam H, huyện T, thành phố H; Có mặt.

3, Ông Nguyễn Huy Đ2, sinh năm 1971; Cư trú: Thôn Vĩnh N, xã Vĩnh Q, huyện T, thành phố H; Có mặt.

4, Nguyễn Huy T Th3, sinh năm 1992; Cư trú: Thôn Vĩnh N, xã Vĩnh Q, huyện T, thành phố H; Có mặt.

5, Anh Nguyễn Ngọc M, sinh năm 1994; Cư trú: Thôn Vĩnh N, xã Vĩnh Q, huyện T, thành phố H; Có mặt.

6, Anh Nguyễn Phương Đ3, sinh năm 1993; Cư trú: Thôn Ích Đ Thôn Vĩnh N, xã Vĩnh Q, huyện T, thành phố H; Có mặt.

7, Chị Trần Vân A, sinh năm 1994; Cư trú: Thôn Huỳnh C, xã Tam H, huyện T, thành phố H; Vắng mặt.

8, Anh Nguyễn Huy T2, sinh năm 1999; Cư trú: Thôn Vĩnh N, xã Vĩnh Q, huyện T, thành phố H; Vắng mặt.

9, Chị Đỗ Thị T3, sinh năm 1971; Cư trú: Thôn Vĩnh N, xã Vĩnh Q, huyện T, thành phố H; Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, bản cáo trạng truy tố bị cáo và diễn biến tại phiên toà thì nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 23 giờ 30 phút ngày 20/11/2018, anh Nguyễn Hữu Th1 (sinh năm 1997) cùng chị Trần Thúy M (sinh năm 1995; Là vợ anh Th1), anh Nguyễn Đ1 Th2 (sinh năm 1990), chị Trần Vân A (sinh năm 1994; Là vợ anh Th2), anh Nguyễn Ngọc M (sinh năm 1994) và anh Nguyễn Phương Đ3 (sinh năm 1993) đều trú tại xã Vĩnh Q, huyện T, thành phố H đến ăn tại quán ốc gần đình làng V, xã Vĩnh Q, huyện T, thành phố H. Tại đây, nhóm của anh Th1 nhìn thấy Nguyễn Huy T1 (sinh năm 1999) và Nguyễn Huy T2 (sinh năm 1999; Là em họ của T1; Cả hai đều trú tại: Cụm 13, thôn V, xã Vĩnh Q, huyện T, thành phố H) đi qua trước quán. Do trước đó, T1 có vay tiền và còn nợ anh Th1 8.550.000 đồng nên anh Th1 ra gặp chị T3 và bảo về nhà trước, đợi anh Th1 ăn xong sẽ vào nhà T1 để nói chuyện về tiền nợ. Đến khoảng 00 giờ 00 ngày 21/11/2018, nhóm của anh Th1 ăn xong đã cùng nhau đi đến khu vực nhà T1 để đòi nợ. Khi đến đầu ngõ nhà T1 thì anh Đ3, anh M, chị M và chị Vân A đứng ngoài đợi; còn anh Th1 và anh Th2 đi vào nhà T1 nói chuyện với ông Nguyễn Huy Đ1 và bà Phan Thị V (là ông, bà nội của T1; Cùng trú tại: Cụm 13, thôn V, xã Vĩnh Q, huyện T, thành phố H). Lúc này, trong nhà có ông Đ1, bà V, anh T2 và T1. Trong khi nói chuyện có xảy ra việc to tiếng giữa anh Th1 với ông Đ1, bà V về việc anh Hữu Th1 ấn định thời gian T1 phải trả nợ. Nghe thấy tiếng ồn ào, ông Nguyễn Huy Đ2 (sinh năm 1971; Trú tại: Cụm 13, thôn V, xã Vĩnh Q, huyện T, thành phố Hà Nội; Là bác của T1) nhà ở gần đó, đã sang nói chuyện với anh Th1, anh Th2, đề nghị đêm hôm không được to tiếng ảnh hưởng đến hàng xóm, việc nợ nần tính sau. Lúc này, anh Th1 và anh Th2 tiếp tục to tiếng chửi T1, dẫn đến hai bên xô xát với nhau. Anh Th1 và anh Th2 bỏ chạy ra đầu ngõ và nhặt gạch ném về phía T1 và ông Đ2. Thấy hai bên đánh nhau, chị Vân A, chị M chạy vào kéo anh Th1, anh Th2 về nhưng cả hai không nghe, tiếp tục chửi và thách thức nhau với những người bên phía nhà T1.

Thấy anh Th1, anh Th2 có thái độ hung hăng nên ông Đ2 chạy ra để đánh nhau thì ông Đ2 bị anh Th2 ôm để anh Th1 dùng tay đánh vào mặt ông Đ2. Thấy ông Đ2 bị đánh, anh Nguyễn Huy Toàn Th3 (sinh năm 1992; Là con trai ông Đ2) lấy 01 thanh kiếm ở nhà định xông ra ngoài để dọa không cho anh Hữu Th1, anh Th2 đánh ông Đ2 thì được bà Đỗ Thị T3 (sinh năm 1971; Là vợ ông Đ2) can ngăn, đứng chặn cửa cổng. Anh Toàn Th3 bức xúc với nhóm của anh Hữu Th1, anh Th2 nên từ trong cổng thò kiếm ra ngoài đe doạ thì bà T3 đẩy anh Toàn Th3 vào trong và kéo cửa cổng lại, làm tay cầm kiếm của anh Toàn Th3 bị cánh cửa kẹt vào, kiếm rơi ra bên ngoài ngõ. Lúc này, ông Đ2 đi về đến cổng thấy thanh kiếm bị rơi liền nhặt thanh kiếm lên thì anh Hữu Th1 và anh Th2 bỏ chạy. Ông Đ2 đuổi theo vung kiếm chém về phía anh Th2 nhưng không trúng nên bị mất đà ngã xuống đất, thanh kiếm rơi xuống ngõ phía sau lưng ông Đ2, cách ông Đ2 khoảng 01m. Thấy ông Đ2 ngã, anh Th2 chạy quay lại đấm 01 quả vào mặt ông Đ2 rồi bỏ chạy. T1 ở trong nhà chứng kiến việc đánh nhau giữa ông Đ2 với anh Hữu Th1, anh Th2 nên chạy ra nhặt thanh kiếm (do ông Đ2 đánh rơi), cầm đuổi theo anh Hữu Th1. Anh Hữu Th1 vừa chạy vừa nhặt gạch ném lại phía T1 nhưng không trúng. T1 đuổi theo Hữu Th1 được đoạn đường khoảng 85 mét ra đến đường liên thôn thì đuổi kịp. T1 cầm kiếm bằng tay phải chém 01 nhát theo hướng từ trên xuống dưới, trúng vào lưng anh Hữu Th1. Bị chém, anh Hữu Th1 quay lại nói: “Tại sao mày làm thế” thì T1 chém tiếp 01 phát hướng từ trên xuống dưới thì anh Hữu Th1 giơ tay phải lên trước mặt đỡ làm lưỡi kiếm trúng các ngón tay và vùng cẳng tay phải và bị ngã xuống đường. Sau đó, anh Hữu Th1 vùng dậy bỏ chạy được 02 mét thì T1 đuổi theo chém tiếp 01 phát theo hướng từ trên xuống vùng đầu anh Hữu Th1, gây ra các thương tích vùng thái dương phải và má phải làm anh Th1 gục xuống đường. Thấy vậy, T1 tiếp tục chém thêm 01 phát vào lưng anh Hữu Th1. Khi T1 vung kiếm lên định chém nhát thứ năm vào người anh Hữu Th1 thì chị M đi xe máy đến đâm vào người T1 và nói “T1 ơi! Chị xin em, em nghĩ đến con chị”. Thấy vậy, T1 dừng lại và cầm kiếm đi về còn anh Hữu Th1 được mọi người đưa đi cấp cứu.

Sau khi vụ việc xảy ra, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện T đã phối hợp với các Cơ quan chức năng tiến hành khám nghiệm hiện trường, xác minh, thu thập chứng cứ, trưng cầu giám định pháp y thương tích đối với anh Nguyễn Hữu Th1. Kết quả như sau:

Tại biên bản khám nghiệm hiện trường vụ án hồi 02h55 phút ngày 21/11/2018, xác định:

“... Hiện trường xảy ra vụ việc là nhà bà Phan Thị V (sinh năm 1951; Trú tại: Thôn V, xã Vĩnh Q, huyện T, thành phố H). Nhà bà Phan Thị V có ngõ đi chung được đổ bê tông bằng phẳng rộng 1m73. Tại đây để lại nhiều viên gạch nửa (dạng gạch xây nhà) và đã bị vỡ vụn bám dính trên mặt đường của ngõ đi chung trên diện rộng. Cách nhà bà Phan Thị V khoảng 500 mét hướng ra UBND xã Vĩnh Q đến trước cửa quán game Cao Chính Pro, tại đây có đường đi chung được đổ bằng bê tông bằng phẳng rộng 4m76 cách mép cửa quán game Cao Chính Pro 5m17, cách mép cột điện VN 5847/2016 là 7m60 để lại chất dung dịch màu đỏ dạng máu bán kính trên mặt nền đất kích thước (92x60)cm. Cách mép cửa quán game Cao chính Pro 10m15, cách cột điện VN 5847/2016 là 5m70 để lại chất dung dịch màu đỏ dạng máu bám dính trên mặt nền đất kích thước (80x40)cm.” Tại biên bản dựng lại hiện trường vụ án hồi 15 giờ 00 phút ngày 03/7/2019, xác định:

“… Hiện trường xảy ra tại xóm VN, xã V, huyện Vĩnh Q, huyện T, thành phố H. Tại vị trí cách mép phải cống 60cm, (tính theo hướng từ ngoài nhìn vào nhà) nằm trên mép cống là vị trí xảy ra xô sát. Tại vị trí cách mép cửa ra vào nhà anh Đ2 46cm, cách tường trái của ngõ 270 cm (tính từ nhà anh Đ2 ra ngoài đường to) là vị trí anh Đ2 nhặt kiếm. Tại vị trí cách tường khu đất nhà anh HA 70 cm, cách tường nhà cụ VG 245 cm là vị trí anh Đ2 chém trượt Th2. Tại vị trí cách tường nhà cụ VG 45 cm cách mép cửa nhà anh HA 200 cm là vị trí T1 nhặt kiếm đuổi theo. Vị trí T1 nhặt kiếm cách vị trí anh Đ2 chém trượt Th2 là 200cm. Tại vị trí cách vị trí anh Đ2 chém trượt Th2 410 cm là vị trí T1 chém Th1. Đo từ vị trí T1 chém Th1 đến vị trí anh Đ2 chém trượt Th2 được là 8.500cm.” Vật chứng thu giữ: Ngày 21/11/2018, Cơ quan điều tra đã thu giữ của Nguyễn Huy Toàn Th1 01 thanh kiếm dài khoảng 60cm, cán gỗ có lưỡi phía sau hình răng cưa.

Tại bản kết luận giám định pháp y thương tích số 08/TTPY ngày 02/01/2019 của Trung tâm pháp y - Sở y tế Hà Nội kết luận tỷ lệ tổn thương cơ thể của Nguyễn Hữu Th1 như sau:

“…- Sẹo vết thương vùng Th2 dương phải, kích thước (09x0,3)cm, sẹo phẳng.

- Sẹo vết thương má phải, kích thước (10x0,3)cm, sẹo lồi, lõm, rúm xấu.

- Sẹo vết thương vùng lưng - bả vai bên phải, kích thước (07x0,4)cm, có vuốt đuôi chuột.

- Sẹo vết thương vùng lưng trái, kích thước (14x0,3)cm, sẹo hồng, có vuốt đuôi chuột.

- Sẹo vết thương nằm ngang 1/3 trên sau cánh tay phải, kích thước (12x0,3)cm, sẹo thâm, lồi lõm, rúm xấu nhẹ. Vận động vai phải còn hạn chế.

- Mặt mu ngang đốt 02 ngón II, III bàn tay phải có 02 sẹo vết thương, kích thước mỗi vết (01x0,3)cm, vận động các ngón và bàn tay phải bình thường.

3. Cận lâm sàng:

- Điện não đồ: Hiện chưa thấy hoạt động bất thường.

- Xquang sọ não, cánh tay và bàn tay phải thẳng, nghiêng: Chưa thấy hình ảnh tổn thương xương.

VI. Kết luận tại thời điểm giám định:

1. Các sẹo vết thương phần mềm vùng đầu, lưng và tay phải, không tổn thương xương: 10%.

2. Sẹo vết thương vùng má phải, ảnh hưởng thẩm mỹ: 11%.

3. Hiện chưa đánh giá được mức độ di chứng vết thương cánh tay phải, đề nghị giám định bổ sung, sau khi có căn cứ.

- Nhiều khả năng các thương tích do vật sắc gây nên.

- Tỷ lệ tổn hại sức khoẻ là 20% (theo phương pháp cộng lùi).” Ngày 09/5/2019, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện T đã trưng cầu giám định bổ sung tỷ lệ tổn hại sức khoẻ của Nguyễn Hữu Th1. Tại bản kết luận giám định pháp y thương tích bổ sung số 428/TTPY ngày 17/5/2019 của Trung tâm pháp y Sở y tế H kết luận: “… không có căn cứ để bổ sung tỷ lệ tổn hại sức khoẻ. Tỷ lệ tổn hại sức khoẻ giữ nguyên theo bản kết luận giám định pháp y thương tích số 08/TTPY ngày 02/01/2019 của Trung tâm pháp y – Sở y tế H.” Đối với anh Nguyễn Huy Toàn Th1 có hành vi sử dụng kiếm để dọa 02 anh Hữu Th1, anh Th2 và ông Nguyễn Huy Đ2 dùng kiếm chém trượt anh Hữu Th1. Kết quả điều tra xác định anh Toàn Th1 và ông Đ2 có hành vi trên là do thấy anh Nguyễn Hữu Th1 và anh Nguyễn Đức Th2 đêm khuya đến nhà đe doạ, chửi bới, ném gạch và đấm ông Đ2. Mục đích anh Toàn Th1 lấy kiếm ra để đe doạ không cho anh Hữu Th1, anh Th2 đánh ông Đ2. Khi Toàn Th1 làm rơi kiếm, ông Đ2 nhặt thanh kiếm rơi ngoài cửa cổng đuổi theo chém anh Th2 nhưng không trúng. Anh Toàn Th1 và ông Đ2 không bàn bạc, không tham gia cùng Nguyễn Huy T1 chém anh Hữu Th1 nên không đồng phạm với Nguyễn Huy T1. Do đó, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố H không đề cập xử lý đối với Nguyễn Huy Toàn Th1 và Nguyễn Huy Đ2.

Đối với hành vi đánh nhau của Nguyễn Hữu Th1, Nguyễn Đức Th2 và ông Nguyễn Huy Đ2, Công an huyện T đã ra Quyết định xử lý vi phạm hành chính về hành vi “Đánh nhau” bằng hình thức phạt tiền, mức phạt 750.000đồng/người; Xử phạt Nguyễn Huy Toàn Th1 về hành vi “Tàng trữ vũ khí thô sơ” mà không có giấy phép quy định, mức phạt 15.000.000 đồng.

Kết quả điều tra xác định anh Nguyễn Ngọc M, anh Nguyễn Phương Đ3, chị Trần Thúy M và chị Trần Vân A không tham gia vào việc xô xát với ông Nguyễn Huy Đ2 và Nguyễn Huy T1. Do đó, Cơ quan điều tra không đề cập xử lý đối với anh M, anh Đ3, chị M và chị Vân A.

Trách nhiệm dân sự: Trong giai đoạn điều tra vụ án, ông Nguyễn Huy Đ1 (ông nội bị cáo) đã thay mặt bị cáo Nguyễn Huy T1 bồi thường cho anh Nguyễn Hữu Th1 số tiền 30.000.000 đồng. Anh Nguyễn Hữu Th1 yêu cầu Nguyễn Huy T1 tiếp tục bồi thường thêm số tiền 70.000.000 đồng và đề nghị xử lý T1 theo pháp luật.

Tại bản cáo trạng số 378/CT-VKS-P2 ngày 08/10/2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố H đã truy tố Nguyễn Huy T1 về tội “Giết người” theo điểm n khoản 1 Điều 123 Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà:

- Bị cáo Nguyễn Huy T1: Không có ý kiến về tội danh, điều luật Viện kiểm sát truy tố; Khai báo thành khẩn hành vi phạm tội như tại Cơ quan điều tra; Xin được giảm nhẹ hình phạt.

- Bị hại anh Nguyễn Hữu Th1: Không có ý kiến về tội danh, điều luật Viện kiểm sát truy tố bị cáo; Về hình sự: Đề nghị giải quyết theo quy định của pháp luật; Về dân sự: Bị cáo và gia đình đã bồi thường 30.000.000 đồng, đến nay anh yêu cầu bị cáo bồi thường tiếp 70.000.000 đồng gồm các khoản tiền thuốc, tiền mất thu nhập, tiền công người chăm sóc, tiền tổn thất tinh thần. Các khoản tiền này đã nộp các tài liệu chứng minh tại Cơ quan điều tra.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án ông Nguyễn Huy Đ1:

Sau khi sự việc xảy ra, bị cáo đã sử dụng số tiền của ông Đ1 và cùng ông Đ1 đến nhà anh Th1 bồi thường 30.000.000 đồng. Số tiền này ông Đ1 không yêu cầu bị cáo phải trả lại.

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố H tham gia phiên toà giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo Nguyễn Huy T1 về tội “Giết người” theo quy định tại điểm n khoản 1 Điều 123 Bộ luật hình sự như nội dung bản cáo trạng đã nêu và đề nghị xử phạt bị cáo từ 08 đến 10 năm tù; Về trách nhiệm dân sự: Đề nghị giải quyết theo quy định của pháp luật; Về xử lý vật chứng: Tịch thu, tiêu hủy thanh kiếm thu giữ trong quá trình điều tra vụ án.

- Người bào chữa cho bị cáo tại phiên toà có quan điểm: Không có ý kiến về tội danh, điều luật Viện kiểm sát truy tố bị cáo; Bị cáo chưa có tiền án, tiền sự;

Gia đình có hoàn cảnh khó khăn; Bị hại có một phần lỗi; Hậu quả bị hại thương tích thấp; Bị cáo đã khai báo thành khẩn; Ăn năn hối cải; Đã bồi thường một phần thiệt hại; Đề nghị xử phạt bị cáo mức hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng và thấp hơn đề nghị của Viện kiểm sát.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Quá trình điều tra và tại phiên tòa, người bào chữa, bị cáo, bị hại và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.

Các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử cơ bản đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.

[2] Lời khai của bị cáo tại phiên tòa sơ thẩm phù hợp lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra; Phù hợp lời khai của bị hại, nhân chứng, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án; Phù hợp biên bản khám nghiệm hiện trường, biên bản dựng lại hiện trường, biên bản nhận dạng, bản kết luận giám định pháp y thương tích đối với bị hại và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác được thu thập hợp pháp có trong hồ sơ vụ án, đã được xem xét công khai tại phiên tòa, có đủ cơ sở kết luận:

Xuất phát từ việc Nguyễn Huy T1 có vay và còn nợ anh Nguyễn Hữu Th1 8.550.000 đồng chưa trả nên khoảng 00 giờ 00 phút ngày 21/11/2018, anh Nguyễn Hữu Th1 đến nhà T1 tại cụm 13, thôn V, xã Vĩnh Q, huyện T, thành phố H để đòi nợ. Tại đây, anh Th1 đã cãi nhau, to tiếng với T1, ông bà nội T1 và đánh ông Nguyễn Huy Đ2 là bác của T1. Thấy vậy, do bực tức và muốn dằn mặt anh Th1 nên T1 đã dùng thanh kiếm cán bằng gỗ, lưỡi kiếm có một mặt, đầu kiếm nhọn, cong, có gáy kiểu răng cưa (có một thanh ngang bằng kim loại chia phần cán gỗ và lưỡi kiếm), kích thước dài khoảng 60cm đuổi đánh anh Th1, anh Th1 bỏ chạy đến khu vực trước cửa Công ty trách nhiệm hữu hạn thiết bị điện NH tại cụm 13, thôn V, xã Vĩnh Q, huyện T, thành phố H thì bị T1 đuổi kịp, T1 đã cầm kiếm bằng tay phải chém nhiều nhát vào đầu, lưng và tay phải của anh Th1, làm anh Th1 gục ngã xuống đường. Khi thấy chị M là vợ anh Th1 đến can ngăn, van xin thì T1 không chém nữa và cầm kiếm đi về.

Hậu quả: do được cấp cứu kịp thời nên anh Th1 không tử vong mà bị sẹo vết thương phần mềm vùng Th2 dương phải, lưng, các ngón tay, vùng cẳng tay phải và vùng má phải, tỉ lệ tổn hại sức khỏe là 20%.

Nguyễn Huy T1 cố ý thực hiện hành vi phạm tội, T1 nhận thức rõ việc sử dụng công cụ phạm tội là thanh kiếm chém liên tiếp vào người anh Th1 khi anh Th1 không còn khả năng chống cụ là nguy hiểm, có thể làm nạn nhân chết, tuy không mong muốn nhưng có ý thức để mặc hậu quả xảy ra.

Với hành vi phạm tội nêu trên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố H truy tố Nguyễn Huy T1 về tội “Giết người”, tội danh và hình phạt quy định tại điểm n khoản 1 Điều 123 Bộ luật hình sự là đúng quy định của pháp luật.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến tính mạng con người được pháp luật hình sự bảo vệ. Do vậy, cần cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới có tác dụng giáo dục, cải tạo bị cáo và răn đe phòng ngừa chung.

Nhân thân bị cáo chưa có tiền án, tiền sự;

Khi lượng hình, xét thấy sau khi phạm tội bị cáo và ông nội đã bồi thường thiệt hại cho anh Th1 số tiền 30.000.000 đồng; Tại phiên toà, bị cáo thành khẩn khai báo; Ăn năn hối cải hành vi phạm tội của mình; Nguyên nhân xảy ra vụ việc có một phần lỗi của bị hại; Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo quy định tại điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo là đặc biệt nghiêm trọng, tuy nhiên bị cáo phạm tội lần đầu; Hậu quả hành vi phạm tội bị hại bị thương tích thấp; Có nhiều tình tiết giảm nhẹ, không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự; Thái độ thành khẩn, ăn năn; Đã bồi thường một phần thiệt hại nên giảm hình phạt, cho bị cáo hưởng mức hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng cũng đủ để giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.

[3] Biện pháp tư pháp: Căn cứ Điều 46; Điều 47; Điều 48 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 590 Bộ luật dân sự:

- Về trách nhiệm dân sự:

Bị cáo là người thực hiện hành vi phạm tội đối với anh Nguyễn Hữu Th1 nên buộc bị cáo phải có trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho anh Th1.

Tại phiên tòa, anh Th1 yêu cầu ngoài số tiền 30.000.000 đồng mà bị cáo đã bồi thường thì bị cáo phải bồi thường tiếp 70.000.000 đồng gồm các khoản tiền thuốc, tiền mất thu nhập 02 tháng, tiền mất thu nhập của chị M 01 tháng do phải chăm sóc anh Th1, tiền tổn thất tinh thần.

Căn cứ vào quy định của pháp luật và các tài liệu chứng cứ về chi phí cho việc cứu chữa, thu nhập thực tế bị mất, chi phí thu nhập thực tế bị mất của chị Trần Thúy M (là vợ anh Th1), Hội đồng xét xử chấp nhận các khoản sau:

+ Tiền thuốc, viện phí tại bệnh viện quân y 103 từ ngày 21/11/2018 đến ngày 26/11/2018 và tiền viện phí điều trị tại Bệnh viện NN 1 là: 15.393.779 đồng;

+ Tiền mất thu nhập của anh Th1 trong 02 tháng là: 9.500.000 đồng x 2 tháng = 19.000.000 đồng;

+ Tiền mất thu nhập của chị Trần Thúy M do chăm sóc anh Th1 là: 6.000.000 đồng.

+ Tiền bù đắp tổn thất tinh thần: căn cứ vào tỉ lệ tổn hại sức khỏe của Th1, Hội đồng xét xử quyết định mức bồi thường tổn thất tinh thần là 10 tháng lương x 1.490.000 đồng (mức lương cơ bản một tháng theo quy định hiện nay) = 14.900.000 đồng.

Do vậy, buộc bị cáo phải bồi thường cho anh Th1 tổng số tiền là 55.293.779 đồng (năm mươi lăm triệu hai trăm chín mươi ba nghìn bẩy trăm bẩy mươi chín đồng). Bị cáo đã bồi thường cho anh Th1 30.000.000 đồng (ba mươi triệu đồng) nên còn phải bồi thường tiếp cho anh Th1 số tiền là 25.293.779 đồng (hai mươi lăm triệu hai trăm chín mươi ba nghìn bẩy trăm bẩy mươi chín đồng).

- Về xử lý vật chứng: Tịch thu, tiêu huỷ thanh kiếm bị cáo đã sử dụng chém bị hại mà Cơ quan điều tra đã thu giữ trong quá trình điều tra vụ án.

[4] Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm, dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[5] Bị cáo, bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Huy T1 phạm tội “Giết người".

2. Áp dụng: điểm n khoản 1 Điều 123; điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 54 Bộ luật hình sự

3. Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Huy T1 09 (chín) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 31/3/2020.

4. Biện pháp tư pháp: Căn cứ Điều 46; Điều 47; Điều 48 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 590 Bộ luật dân sự:

- Trách nhiệm dân sự:

+ Buộc bị cáo Nguyễn Huy T1 phải bồi thường cho anh Nguyễn Hữu Th1 số tiền là 25.293.779 đồng (hai mươi lăm triệu hai trăm chín mươi ba nghìn bẩy trăm bẩy mươi chín đồng).

+ Kể từ ngày án có hiệu lực pháp luật hoặc có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả. Lãi suất phát sinh do chậm trả được thực hiện theo khoản 2 điều 357 Bộ luật dân sự.

- Xử lý vật chứng:

+ Tịch thu, tiêu hủy: 01 (một) thanh kiếm cán bằng gỗ, lưỡi kiếm có một mặt, đầu kiếm nhọn, cong, có gáy kiểu răng cưa (có một thanh ngang bằng kim loại chia phần cán gỗ và lưỡi kiếm), kích thước dài khoảng 60cm.

Vật chứng trên hiện lưu giữ tại Kho vật chứng Chi cục thi hành án dân sự huyện T, thành phố H theo Biên bản giao, nhận vật chứng lập ngày 12/8/2019 giữa Công an huyện T và Chi cục thi hành án dân sự huyện T.

5. Án phí và quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 135; Điều 136; Điều 331; Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Toà án:

Bị cáo phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm; 1.264.688 đồng (một triệu hai trăm sáu mươi tư nghìn sáu trăm tám mươi tám đồng) án phí dân sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm, thời hạn kháng cáo là 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Bị hại anh Nguyễn Hữu Th1 có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm, thời hạn kháng cáo là 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án ông Nguyễn Huy Đ1 có quyền kháng cáo phần bản án sơ thẩm có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình, thời hạn kháng cáo là 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

372
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 494/2020/HSST ngày 29/12/2020 về tội giết người

Số hiệu:494/2020/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về