Bản án 494/2019/HS-ST ngày 23/10/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BIÊN HÒA TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 494/2019/HS-ST NGÀY 23/10/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 23 tháng 10 năm 2019, tại Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 479/2019/TLST-HS ngày 07 tháng 10 năm 2019; theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số: 490/2019/QĐXXST-HS ngày 10 tháng 10 năm 2019 đối với:

- Bị cáo: Lê Vũ Tuấn K, sinh năm 1972 tại Đồng Nai; nơi cư trú: phường Phước Long B, Quận C, thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: Lái xe; trình độ văn hóa (học vấn): 6/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Thiên Chúa; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Thanh H và bà Vũ Thị K; bị cáo có vợ tên Võ Thụy Mộng T, có một con sinh năm 2001; tiền án: Không; tiền sự: Không;

Nhân thân: Tại bản án số 100/HSST ngày 18/6/1993, Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai xử phạt 07 (bảy) năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

Ngày 23/12/2015, Công an thị xã Long Khánh, tỉnh Đồng Nai bắt giữ về hành vi “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; ngày 21/6/2016, Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Long Khánh đình chỉ vụ án đối với bị can Lê Vũ Tuấn K do lượng ma túy thu trong người K ít và do chuyển biến tình hình nên miễn trách nhiệm hình sự cho K. Ngày 05 tháng 10 năm 2016 Công an thị xã Long Khánh đã ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính về hành vi tang trữ trái phép chất ma túy. Bị cáo đã chấp hành xong.

Bị cáo bị bắt quả tang và tạm giữ ngày 27/6/2019, chuyển tạm giam theo Lệnh số 306 ngày 04/7/2019 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa. Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ thuộc Công an thành phố Biên Hòa; có mặt tại phiên tòa.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Chị Võ Thụy Mộng T, sinh năm: 1982; cư trú tại: 187/8A, Khu phố B, đường H, phường B, Quận C, thành phố Hồ Chí Minh; vắng mặt tại phiên tòa.

- Người làm chứng: Anh Văn Viết C, sinh năm: 1985; cư trú tại: Khu phố N, phường H, thành phố H, tỉnh Đồng Nai; vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Lê Vũ Tuấn K là người sử dụng trái phép chất ma túy. Khoảng 10 giờ ngày 26/6/2019, K đến khu vực bến xe Đ thuộc Quận Th, thành phố Hồ Chí Minh mua của người thanh niên tên C (Không rõ lai lịch) 09 (chín) gói ma túy (ma túy đá), với giá 2.500.000đ (hai triệu năm trăm nghìn đồng) để sử dụng. Khoảng 01 giờ ngày 27/6/2019, K cất giấu 09 (chín) gói ma túy trên ở trong cốp xe mô tô biển số 60C1-846.03 rồi điều khiển xe mô tô trên đi đến khu vực thuộc Khu phố M, phường H, thành phố H, tỉnh Đồng Nai thì bị Tổ tuần tra Công an phường H, thành phố H kiểm tra, phát hiện bắt quả tang, chuyển giao Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa xử lý.

Tại Cơ quan điều tra, Lê Vũ Tuấn K khai nhận hành vi phạm tội như trên (Biên bản bắt người phạm tội quả tang, bút lục 01 đến 02, lời khai bị can, bút lục số: 39, 41 đến 43, từ 46 đến 51; Lời khai nhân chứng, bút lục số: 02, 52 đến 53).

- Vật chứng thu giữ:

+ 01 gói nylon hàn kín hai đầu, bên trong chứa 09 (chín) gói nylong nhỏ chứa tinh thể màu trắng (kí hiệu M), đã được niên phong có chữ ký của Lê Vũ Tuấn K; (bút lục 03)

- Tại bản Kết luận giám định số 639/PC09-GĐMT ngày 03/7/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai, kết luận: Mẫu tinh thể màu trắng được niêm phong gửi đến giám định là ma túy, có khối lượng: 14,3529 gam, loại: Methamphetamine. (Bút lục số 06).

- 01 (một) điện thoại di động hiệu Oppo, số Imei: 358468741607672 của Lê Vũ Tuấn K không liên quan đến vụ án.

- 01 (một) xe mô tô hiệu Yamaha biển số 60C1- 864.03 là tài sản riêng của chị Võ Thụy Mộng T (vợ của bị cáo K). Chị T mua xe lại của anh Dương Như H, cư trú tại ấp S, phường H, huyện Th, tỉnh Đồng Nai. Chị T không biết K xử dụng xe làm phương tiện phạm tội. Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa đã giao trả xe mô tô biển số 60C1- 864.03 cho chị T (bút lục 55 đến 61).

Đối với người thanh niên tên C (không rõ lai lịch, địa chỉ) đã có hành vi bán trái phép chất ma túy cho Lê Vũ Tuấn K, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa tiếp tục làm rõ, xử lý sau.

Tại Cáo trạng số: 483/CT-VKSBH-HS ngày 30/9/2019 của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai đã truy tố bị cáo Lê Vũ Tuấn K về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm g, Khoản 2, Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

- Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị:

+ Áp dụng Điểm g, Khoản 2, Điều 249 và Điểm s Khoản 1, Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); xử phạt bị cáo Lê Vũ Tuấn K từ 05 (năm) năm 06 (sáu) tháng tù đến 06 (sáu) năm tù.

+ Xử lý vật chứng theo quy định.

- Tại phiên tòa bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội như nội dung cáo trạng đã mô tả, nhận thức được hành vi sai trái của mình và xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng:

Trong suốt quá trình điều tra, truy tố và xét xử, các hành vi, quyết định tố tụng của những người tiến hành tố tụng phù hợp với quy định của pháp luật tố tụng hình sự; các văn bản tố tụng được tống đạt hợp lệ và đầy đủ. Bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.

[2] Về hành vi bị truy tố và tội danh:

Tại phiên tòa, bị cáo Lê Vũ Tuấn K thừa nhận hành vi phạm tội như cáo trạng đã truy tố; Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp lời khai trong biên bản bắt người có hành vi phạm tội quả tang, kết luận giám định, biên bản hỏi cung bị can, biên bản lấy lời khai người làm chứng cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa. Do đó, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận:

Khoảng 01 giờ, ngày 27/6/2019, tại khu vực thuộc Khu phố M, phường H, thành phố H, tỉnh Đồng Nai, Lê Vũ Tuấn K có hành vi tàng trữ trái phép 14,3529 gam loại Methamphetamine thì bị bắt quả tang. Như vậy, bản Cáo trạng số 483/CT-VKSBH ngày 30/9/2019 của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa và kết luận của Kiểm sát viên đề nghị truy tố bị cáo K về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo các điều khoản tương ứng nêu trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[3] Về các tình tiết liên quan đến việc quyết định hình phạt:

- Xét tính chất mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội và lỗi: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Bị cáo là người nghiện ma túy, nhận thức rõ được tác hại của ma túy nhưng vẫn tàng trữ trái phép chất ma túy để sử dụng. Ngày 05 tháng 10 năm 2016 Công an thị xã Kh đã ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính về hành vi tang trữ trái phép chất ma túy đối với bị cáo K. Tuy nhiên, bị cáo K không lấy đó làm bài học tu dưỡng rèn luyện bản thân. Do đó, cần xử phạt bị cáo mức án nghiêm, tương xứng với tính chất, mức độ phạm tội của bị cáo nhằm răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.

- Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

- Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử, bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải được quy định tại điểm s, Khoản 1, Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Vì vậy cần xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

[4] Về vật chứng:

- Đối với số ma túy còn lại sau giám định (Theo Quyết định chuyển vật chứng số 6146/QĐ-VKSBH ngày 30/9/2019 và Biên bản giao nhận vật chứng của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Biên Hòa ngày 03/10/2019) là vật thuộc Nhà nước cấm tàng trữ nên căn cứ theo điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 và điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự cần tịch thu tiêu hủy;

- 01 (một) điện thoại di động hiệu Oppo, số Imei: 358468741607672 của Lê Vũ Tuấn K do không liên quan đến việc phạm tội nên cần tuyên trả cho bị cáo;

- 01 (một) xe mô tô hiệu Yamaha biển số 60C1-864.03, số máy 451202, số khung 430895 là tài sản riêng của chị Võ Thụy Mộng T (vợ của bị cáo K). Chị T không biết K xử dụng xe làm phương tiện phạm tội. Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa đã giao trả xe mô tô biển số 60C1-864.03 cho chị T là phù hợp với quy định của pháp luật;

Đối với người thanh niên tên C (không rõ lai lịch, địa chỉ) đã có hành vi bán trái phép chất ma túy cho Lê Vũ Tuấn K, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa tiếp tục làm rõ, xử lý sau là phù hợp.

[5] Về án phí: Áp dụng Nghị quyết số: 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; Buộc bị cáo Lê Vũ Tuấn K phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm;

[6] Quan điểm và đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa tại Tòa có căn cứ đúng pháp luật, nên chấp nhận.

- Đối với phần trình bày của bị cáo tại phiên tòa phù hợp nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Lê Vũ Tuấn K phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

1. Áp dụng Điểm g, Khoản 2, Điều 249, điểm s Khoản 1, Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017);

Xử phạt bị cáo Lê Vũ Tuấn K 05 (năm) năm 06 (sáu) tháng tù giam; thời hạn tù được tính từ ngày 27/6/2019.

2. Xử lý vật chứng:

Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); căn cứ Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự;

- Tịch thu tiêu hủy 01 (một) gói niêm phong số 639 ngày 03/7/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai. Vật chứng này hiện đang lưu giữ tại Chi Cục Thi hành án Dân sự thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai theo Biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 03 tháng 10 năm 2019;

Trả lại cho bị cáo K 01 (Một) điện thoại di động hiệu Oppo, số Imei: 358468741607672 do không liên quan đến vụ án (Theo biên bản giao nhận vật chứng của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Biên Hòa ngày 03/10/2019);

3. Về án phí: Buộc bị cáo Lê Vũ Tuấn K phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm;

4. Quyền kháng cáo: Bị cáo Lê Vũ Tuấn K được quyền kháng cáo trong hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

128
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 494/2019/HS-ST ngày 23/10/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:494/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Biên Hòa - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về