Bản án 493/2020/HNGĐ-ST ngày 30/12/2020 về tranh chấp ly hôn, nuôi con chung

 TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHÂU THÀNH, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 493/2020/HNGĐ-ST NGÀY 30/12/2020 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON CHUNG

Ngày 30 tháng 12 năm 2020 tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Châu Thành xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 331/2020/TLST-HNGĐ ngày 7 tháng 10 năm 2020 về “Tranh chấp ly hôn, nuôi con chung” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 254/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 2 tháng 12 năm 2020 giữa các đương sự:

-Nguyên đơn: Chị Trần Thị T, sinh năm: 1982 (có mặt).

Nơi cư trú: Tổ 31, Ấp Cần T, xã cần Đ , huyện C, tỉnh An Giang.

- Bị đơn: Anh Hà Ngọc A, sinh năm: 1983 (Vắng mặt).

Nơi cư trú: Tổ 31, Ấp Cần T, xã cần Đ, huyện C, tỉnh An Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện xin ly hôn và bản tự khai ngày 7/9/2020 và tại phiên tòa sơ thẩm nguyên đơn chị Trần Thị T trình bày:

Về hôn nhân: Chị và anh Hà Ngọc A kết hôn với nhau vào năm 2005, hôn nhân do quen biết, có tổ chức lễ cưới và đăng ký kết hôn ngày 14/11/2007 tại UBND xã C, huyện C, tỉnh An Giang. Quá trình chung sống hạnh phúc đến năm 2017 thì bắt đầu phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn do chồng chị cờ bạc không lo cho gia đình, chị có khuyên nhủ nhiều lần nhưng vẫn không thay đổi đến năm 2018 thì vợ chồng ly thân cho đến nay. Do tình cảm vợ chồng không còn, không thể hàn gắn, mục đích hôn nhân không đạt được nên tôi yêu cầu được ly hôn với anh Hà Ngọc A.

Về con chung: Có 02 con chung, tên Hà Phú Q , sinh ngày 10/12/2007 và Hà Thái Phú H , sinh ngày 05/04/2013. Sau khi ly thân 02 con sống với chị, sau khi ly hôn chị xin được tiếp tục nuôi con không yêu cầu anh Hà Ngọc A cấp dưỡng.

Về tài sản chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Đối với bị đơn anh Hà Ngọc A: Sau khi thụ lý vụ kiện Tòa án có tống đạt, niêm yết hợp lệ thông báo thụ lý, thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, nhưng phía bị đơn đều vắng mặt không có lý do và cũng không cung cấp lời khai.

Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến: Tại giai đoạn sơ thẩm những người tiến hành tố tụng và tham gia tố tụng đã thực hiện đúng các quy định của bộ luật tố tụng dân sự và tuân thủ đúng quy định pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án. về nội dung vụ án đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị Trần Thị T; Chị Thanh được tiếp tục nuôi dưỡng 2 con chung, anh Hà Ngọc A không phải cấp dưỡng nuôi con chung; Chị T phải chịu án phí hôn nhân gia đình theo quy định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định về vụ án như sau:

[1] Về thủ tục tố tụng: Anh Hà Ngọc A là bị đơn trong vụ kiện đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến phiên tòa xét xử lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt. Theo quy định tại khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án vẫn tiến hành xét xử vắng mặt đối với anh Hà Ngọc A.

[2] Về hôn nhân: Chị Trần Thị T và anh Hà Ngọc A chung sống với nhau vào năm 2005 hôn nhân xây dựng trên cơ sở tự nguyện đến ngày 14 tháng 11 năm 2007 hai bên có đăng ký kết hôn tại UBND xã C, huyện C, tỉnh An Giang. Do vậy, hôn nhân của anh, chị được công nhận là hôn nhân hợp pháp.

Xét về mối quan hệ hôn nhân, Hội đồng xét xử nhận thấy: Chị T và anh Ngọc A chung sống hạnh phúc đến năm 2017 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn theo chị T trình bày là do anh Ngọc A cờ bạc không lo cho gia đình, chị có khuyên nhủ nhiều lần nhưng vẫn không thay đổi đến năm 2018 thì vợ chồng ly thân cho đến nay, tại phiên tòa chị T cương quyết xin được ly hôn. Về phía anh Ngọc A qua 2 lần mời hòa giải anh đều vắng mặt, cán bộ Tòa án có đến nhà để ghi lời khai nhưng anh đều vắng mặt nên cũng không cung cấp được lời khai. Xét thấy, suốt thời gian ly thân hai bên không có thiện chí hàn gắn quan hệ tình cảm, khả năng hàn gắn là không có, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, nghĩ nên chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị Thanh là hoàn toàn phù hợp.

[3] Về con chung: Chị T và anh Ngọc A có 2 con chung tên Hà Phú Q sinh ngày 10/12/2007 và Hà Thái Phú H , sinh ngày 05/04/2013. Từ khi ly thân đến nay 02 con sống với chị T , sau khi ly hôn chị T xin được tiếp tục nuôi dưỡng 2 con chung. Tại tờ tự khai cùng ngày 08/12/2020 cả 2 cháu Phú Q và Phú H đều có nguyện vọng được sống với mẹ. Xét nghĩ không nên làm xáo trộn cuộc sống bình thường của 2 cháu nên để cho chị T được tiếp tục nuôi dưỡng 2 con chung theo nguyện vọng của 2 cháu là hoàn toàn phù hợp.

Về cấp dưỡng nuôi con chung chị Th không yêu không yêu cầu anh Hà Ngọc A cấp dưỡng nên không đặt ra xem xét.

[4] Về tài sản chung và nợ chung: Không có, nên không đặt ra xem xét.

[5] Về án phí: Căn cứ vào điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 và Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khoá 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án chị Trần Thị T phải chịu án phí hôn nhân gia đình theo quy định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng vào các Điều 51, 53, 56 ,81, 82, 83, 84 Luật hôn nhân gia đình năm 2014, các Điều 28, 35, 147, 227, 228, 235, 266, 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khoá 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu của chị Trần Thị T.

Chị Trần Thị T được ly hôn với anh Hà Ngọc A. Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn số 251/KH ngày 14/11/2007 của Ủy ban nhân dân Xã C, Huyện C, tỉnh An Giang không còn giá trị pháp lý.

2. Về con chung: Chị Trần Thị T được tiếp tục nuôi dưỡng 2 con chung tên Hà Phú Q, sinh ngày 10/12/2007 và Hà Thái Phú H, sinh ngày 05/04/2013. Anh Hà Ngọc A không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Dành quyền tới lui, thăm nom con chung cho anh Hà Ngọc A, không ai được cản trở.

3. Về án phí: Chị Trần Thị T phải chịu 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng) án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm được khấu trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp tại biên lai thu số 0007167 ngày 06/10/2020 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Châu Thành, tỉnh An Giang.

4. Về kháng cáo: Chị Trần Thị T được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (30/12/2020). Anh Hà Ngọc A được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được tống đạt hoặc niêm yết bản án.

5. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

144
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 493/2020/HNGĐ-ST ngày 30/12/2020 về tranh chấp ly hôn, nuôi con chung

Số hiệu:493/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Châu Thành - An Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 30/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về