Bản án 493/2019/HS-ST ngày 22/11/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 493/2019/HS-ST NGÀY 22/11/2019 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 22 tháng 11 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, xét xử sơ thẩm vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 559/2019/HSST ngày 11 tháng 10 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 5205/2019/QĐXXST–HS, ngày 28 tháng 10 năm 2019 đối với bị cáo:

Nguyễn Thị Cẩm T; sinh năm: 1991, tại Thừa Thiên – Huế; thường trú: Tổ 8, phường Thủy Châu, thị xã Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên Huế (số cũ Tổ 11, phường Thủy Châu, thị xã Hương Thủy); những nơi đã cư trú: Số 183/5 Bến Vân Đồn, Phường 5, Quận 4, Thành phố Hồ Chí Minh; căn hộ 8.B5 Chung cư Copac Square, số 12 đường Tôn Đản, Phường 13, Quận 4, Thành phố Hồ Chí Minh;

Nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 2/12; giới tính: nữ; dân tộc: kinh; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: không; con ông: Đặng T và bà Nguyễn Thị P; chồng, con: chưa có; tiền án: không Tiền sự: Ngày 07/6/2016 bị Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh Quyết định áp dụng biện pháp xử lý vi phạm hành chính “Đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc” với thời hạn 18 tháng về hành vi: “Sử dụng trái phép chất ma túy”, chấp hành xong tháng 8/2018;

Bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 18/4/2019 – Có mặt.

- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

Ông Nguyễn Ngọc T; Sinh năm: 1989; Thường trú: Số 16/6/15 đường số 13, Phường 4, Quận 4, Thành phố Hồ Chí Minh – Có mặt.

- Người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Thị Cẩm T:

Ông Đỗ Ngọc Oánh là Luật sư Văn phòng luật sư Đỗ Ngọc Oánh thuộc Đoàn luật sư Thành phố Hồ Chí Minh – Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào lúc 19 giờ 45 phút ngày 18/4/2019, tại trước nhà số 76/9 đường Xóm Đất, Phường 8, Quận 11, Thành phố Hồ Chí Minh, Đội cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an Quận 11, kiểm tra bắt quả tang Nguyễn Thị Cẩm T đang ngồi sau xe máy biển số 59T2 – 201.96 do Nguyễn Ngọc T, sinh năm 1989 điều khiển, có hành vi cất giữ trái phép chất ma túy để bán. Thu giữ trong túi xách màu cam của Nguyễn Thị Cẩm T đang đeo trên người 02 gói nylon chứa tinh thể không màu, kết quả giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 19,9338 gam loại Methamphetamine (MA).

Đến 21 giờ 35 phút cùng ngày Cơ quan cảnh sát điều tra Công an Quận 11 Thành phố Hồ Chí Minh, tiến hành khám xét khẩn cấp nơi ở của Nguyễn Thị Cẩm T tại căn hộ số 8.B5 Chung cư Copac Square, số 12 đường Tôn Đản, Phường 13, Quận 4, đã phát hiện và thu giữ bao gồm:

Thu giữ tại phòng khách của căn hộ 01 hộp màu vàng có ghi chữ Butter Cookies bên trong có 01 gói nylon chứa tinh thể không màu, qua giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 39,1102 gam loại Methamphetamine; 01 gói giấy màu xanh, bên trong có 01 gói nylon chứa tinh thể không màu, qua giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 4,5409 gam loại Methamphetamine.

Thu giữ tại phòng ngủ: 01 gói nylon tinh thể không màu, qua giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 0,0668 gam loại Methamphetamine; 01 gói nylon chứa tinh thể không màu, là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 15,8744 gam loại Methamphetamine; 01 hộp hình vuông có 02 gói nylon chứa tinh thể không màu, 01 gói có khối lượng 6,8764gam loại Methamphetamine và 01 gói có khối lượng 1,4377gam loại Methamphetamine.

Vật chứng thu giữ là số ma túy nêu trên đã được giám định tại bản Kết luận giám định số 932/KLGĐ-H ngày 26/4/2019 của Phòng Kỹ thuật Công an Thành phố Hồ Chí Minh (BL 46,47).

Quá trình điều tra, Nguyễn Thị Cẩm T khai nhận như sau:

Bản thân bị cáo có sử dụng ma túy, để có tiền tiêu xài và ma túy sử dụng, Nguyễn Thị Cẩm T đi mua ma túy về phân nhỏ ra bán lại cho các đối tượng nghiện để kiếm lời. Nguyễn Thị Cẩm T bắt đầu mua bán ma túy từ tháng 3/2019 cho đến khi bị bắt. Nguồn ma túy Nguyễn Thị Cẩm T mua của các đối tượng tên Thắng và Cu Lì (không rõ lai lịch), sau khi mua ma túy Nguyễn Thị Cẩm T đem về chỗ ở phân nhỏ ra bán lại cho các đối tượng nghiện. Nguyễn Thị Cẩm T đã mua ma túy của Thắng được khoảng 05 lần, mỗi lần mua từ 10 đến 25 gam với tổng số tiền 32.000.000 đồng. Mua ma túy của Cu Lì được 01 lần khoảng 10 gam ma túy đá (kém chất lượng) với giá 3.000.000 đồng. Nguyễn Thị Cẩm T đã bán ma túy đá cho nhiều đối tượng nghiện không rõ lai lịch, mỗi lần bán từ 0,2 đến 10 gam với giá từ 200.000 đồng đến 4.000.000 đồng. Trong đó Nguyễn Thị Cẩm T đã bán ma túy cho một người phụ nữ không rỏ lai lịch được khoảng 03 lần, mỗi lần từ nửa hộp 05gam đến 01 hộp 10 gam với giá từ 1.000.000 đồng đến 3.500.000 đồng. Ngày 18/4/2019 người phụ nữ tiếp tục liên hệ hỏi mua của Nguyễn Thị Cẩm T 02 hộp 10 (khoảng 20 gam) ma túy đá, Nguyễn Thị Cẩm T báo giá là 3.500.000 đồng/10 gam và hẹn địa điểm giao dịch ma túy tại khu vực quận 11. Lúc này Nguyễn Thị Cẩm T đang cùng bạn trai là Nguyễn Ngọc Tđi ăn, trên đường đi Nguyễn Thị Cẩm T nhờ Tùng tiện đường chở ra hẻm 76, Phường 8, Quận 11 để giải quyết công việc, nhưng thực chất là Nguyễn Thị Cẩm T đi bán ma túy cho khách, tuy nhiên Nguyễn Thị Cẩm T chưa kịp bán ma túy thì bị phát hiện bắt quả tang cùng vật chứng như nêu trên.

Nguyễn Ngọc Tlà bạn trai của Nguyễn Thị Cẩm T không biết và không liên quan đến việc mua bán ma túy của Nguyễn Thị Cẩm T. Nguyễn Ngọc Tkhai nhận phù hợp với lời khai của Nguyễn Thị Cẩm T. Bản thân Tùng qua xét nghiệm âm tính với ma tuý, mặt khác Tùng chưa có tiền án tiền sự, nên Công an Quân 11 giải tỏa cho về.

Đối với các đối tượng tên Thắng, Cu Lì là người bán ma túy cho Nguyễn Thị Cẩm T và các đối tượng nghiện mua ma túy của Nguyễn Thị Cẩm T, do Nguyễn Thị Cẩm T khai không rõ nhân thân lai lịch, nên Cơ quan cảnh sát điều tra không có cơ sở xác minh làm rõ để xử lý.

Vật chứng của vụ án:

- Thu giữ của Nguyễn Thị Cẩm T:

+ 06 gói niêm phong số 932/2019 (gói 1,2,3,4,5,6) bên ngoài có chữ ký của Giám định viên Phan Tấn Quốc và cán bộ điều tra Trần Bảo Cường, bên trong là ma túy còn lại sau giám định.

+ 01 túi xách màu cam; 03 hộp quẹt Gas; 01 hộp nhựa màu vàng có chữ Butter Cookies; 01 đoạn ống nhựa vót nhọn một đầu; 01 hộp giấy hình chữ nhật;

01 gói giấy màu xanh; 01 cân điện tử hiệu Marllono; 02 kẹp gắp; 01 cây kéo; 01 hộp giấy màu đen; 01 hộp giấy hình vuông; 04 ống thủy tinh có đầu hình tròn;

01 bình nhựa có gắn ống hút và ống thủy tinh; 60 bịch nylon bên trong không có chứa gì.

+ Tiền Việt Nam 13.500.000 đồng đã nộp kho bạc Nhà nước, Nguyễn Thị Cẩm T khai là tiền do bạn trai là Nguyễn Ngọc Tcho mượn để sắm đồ.

+ 01 điện thoại di động hiệu Samsung (bể trấy tróc, số imei:…2429/5), Nguyễn Thị Cẩm T khai nhận sử dụng liên lạc cá nhân và mua bán ma túy + 01 điện thoại di động hiệu Iphone màu trắng (bể lưng nát, có chữ A1387) và 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu đen (model A1332, EMC 380…) + 01 xe gắn máy hiệu SH, biển số 59T2 – 201.96, số khung: ZDCKF10B0BF110269; số máy: KF08E-1081419-KTGE1, kết quả giám định tại Phòng Kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh thể hiện xe có số khung số máy không đổi. Qua điều tra xác minh thể hiện xe do ông Phan Thanh T, sinh năm 1984, trú tại 115/50D đường Trần Đình Xu, phường Nguyễn Cư Trinh, Quận 1 đứng tên sở hữu. Ngày 22/9/2018 ông Phan Thanh T làm hợp đồng ủy quyền quyền sử dụng định đoạt xe trên cho ông Hoàng Thế L, sinh năm 1985, trú tại xã Lai Uyên, huyện Bến Cát, tỉnh Bình Dương. Qua xác minh hiện tại ông Hoàng Thế L không còn cư trú tại địa phương, đi đâu không rõ. Nguyễn Thị Cẩm T khai nhận: Qua bạn bè ngoài xã hội, Nguyễn Thị Cẩm T quen biết người tên Lâm (không rõ lai lịch) tại khu vực đường Mã Lò, quận Bình Tân, Lâm đã bán chiếc xe hiệu SH, biển số 59T2 – 201.96 nêu trên cho Nguyễn Thị Cẩm T với giá 210.000.000đồng, nhưng do Nguyễn Thị Cẩm T không có hộ khẩu tại Thành phố Hồ Chí Minh nên chưa thực hiện được việc sang tên chủ xe.

Ngày 18/4/2019 trong lúc đi ăn, Nguyễn Thị Cẩm T nhờ Nguyễn Ngọc Tđiều khiển xe trên chở Nguyễn Thị Cẩm T đi sang quận 11 để bán ma túy thì bị Công an bắt quả tang, lập biên bản tạm giữ xe chờ xử lý. Cơ quan cảnh sát điều tra Công an Thành phố Hồ Chí Minh đã tiến hành đăng báo tìm chủ sở hữu, nhưng chưa có người đến liên hệ giải quyết.

- Thu giữ của Nguyễn Ngọc T:

+ Tiền Việt Nam 7.000.000 đồng đã nộp kho bạc Nhà nước + 01 điện thoại di động hiệu Iphone màu đen (không pin, sim) Tại bản Cáo trạng số 414/CT-VKS-P1 ngày 04 tháng 10 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, đã truy tố bị cáo Nguyễn Thị Cẩm T về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm b khoản 3 Điều 251 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017).

* Tại phiên Tòa:

- Sau khi kết thúc phần thủ tục xét hỏi, Đại diện viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh phát biểu lời luận tội, giữ nguyên quan điểm như nội dung bản cáo trạng đã truy tố. Sau khi phân tích đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ của bị cáo, Đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử: Căn cứ điểm b khoản 3; khoản 5 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Cẩm T từ 16 đến 17 năm tù và phạt bổ sung số tiền 10.000.000 đồng.

Ngoài ra đại diện Viện kiểm sát còn đề xuất xử lý vật chứng theo quy định.

- Người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Thị Cẩm T là Luật sư Đỗ Ngọc Oánh trình bày quan điểm bào chữa như sau:

Thống nhất với quan điểm truy tố của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh về tội danh “Mua bán trái phép chất ma túy”, và khung hình phạt áp dụng đối với bị cáo. Tuy nhiên, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét thêm các tình tiết: Bị cáo có thái độ khai báo thành khẩn ăn năn hối cải, có hoàn cảnh khó khăn, không biết mặt cha mẹ phải sống với bà ngoại từ nhỏ; số ma túy của bị cáo mua nhưng chưa bán được thì bị bắt giữ nên chưa phát tán ra ngoài xã hội và bị cáo cũng chưa có được hưởng lợi gì từ việc mua bán ma túy. Mức hình phạt mà đ ạ i d i ệ n Viện kiểm sát đề nghị đối với bị cáo là nghiêm khắc, nên đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng các tình tiết giảm nhẹ theo điểm s khoản 1 khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự, cho bị cáo được hưởng mức hình phạt dưới mức thấp nhất mà đại diện Viện kiểm sát đề xuất cũng đủ tác dụng giáo dục đối với bị cáo. Đối với số tiền 13.500.000 thu giữ của bị cáo là tiền bạn trai cho mượn để mua sắm đồ dùng, không liên quan đến vụ án, nên đề nghị trả lại cho bị cáo.

- Đ ạ i d i ệ n Viện kiểm sát phát biểu tranh luận: Về tội danh, khung hình phạt và tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự mà Luật sư nêu ra, là thống nhất với quan điểm của đại diện Viện kiểm sát, nên không có ý kiến. Riêng đề nghị của Luật sư cho rằng bị cáo có hoàn cảnh khó khăn, không biết mặt cha mẹ, phải sống với bà ngoại từ nhỏ và số ma túy của bị cáo chưa bán được nên chưa phát tán ra ngoài xã hội, nên đề nghị áp dụng khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự là không có cơ sở, bởi vì trên thực tế bị cáo đã mua bán ma túy nhiều lần cho nhiều người và ngoài ý kiến của Luật sư và bị cáo tại phiên tòa không có chứng cứ gì thể hiện bị cáo có hoàn cảnh khó khăn, nên vẫn giữ nguyên quan điểm như đã đề nghị.

Sau khi tranh luận đối đáp các bên vẫn giữ nguyên quan điểm như đã trình bày.

- Bị cáo Nguyễn Thị Cẩm T đã khai nhận hành vi phạm tội đúng như nội dung vụ án được tóm tắt như nêu trên, bị cáo không có ý kiến tranh luận với đại diện Viện kiểm sát, chỉ đề nghị Hội đồng xét xử, xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử vụ án. Điều tra viên, Kiểm sát viên, khi thực hiện hành vi cũng như ban hành các Quyết định tố tụng đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định tại Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo và những người tham gia tố tụng khác, không người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trong vụ án này đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Xét lời khai nhận của bị cáo Nguyễn Thị Cẩm T tại phiên tòa phù hợp với lời khai của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án và phù hợp với các tài liệu chứng cứ khác được thu thập có trong hồ sơ vụ án. Qua đó đã có đủ cơ sở xác định:

Bản thân bị cáo Nguyễn Thị Cẩm T nghiện ma túy, để có tiền tiêu xài và ma túy sử dụng, bị cáo đi mua ma túy về phân nhỏ ra bán lại cho các đối tượng nghiện. Nguồn ma túy Nguyễn Thị Cẩm T mua của các đối tượng Thắng và Cu Lì (không rõ lai lịch). Nguyễn Thị Cẩm T đã mua ma túy của Thắng được khoảng 05 lần, mỗi lần mua từ 10 đến 25 gam với tổng số tiền là 32.000.000 đồng. Mua của Cu Lì 01 lần khoảng 10 gam ma túy đá giá 3.000.000 đồng. Nguyễn Thị Cẩm T đã bán ma túy cho nhiều đối tượng nghiện (không rõ lai lịch), mỗi lần bán từ 200.000 đồng đến 4.000.000 đồng. Trong đó Nguyễn Thị Cẩm T đã bán ma túy cho người phụ nữ không rỏ lai lịch được khoảng 03 lần, mỗi lần từ 1.000.000 đồng đến 3.500.000 đồng. Ngày 18/4/2019 người phụ nữ tiếp tục liên hệ hỏi mua của Nguyễn Thị Cẩm T 02 hộp 10 (khoảng 20 gam) ma túy đá, Nguyễn Thị Cẩm T báo giá là 3.500.000 đồng/10 gam và hẹn địa điểm giao dịch ma túy tại khu vực quận 11. Sau đó Nguyễn Thị Cẩm T lấy 02 gói ma túy đi giao cho người phụ nữ, số ma túy còn lại đã phân ra bỏ trong nhiều túi nylon, Nguyễn Thị Cẩm T cất giữ tại phòng khách và phòng ngủ của căn hộ rồi đi ăn uống với bạn trai là Nguyễn Ngọc Tùng. Trên đường đi ăn Nguyễn Thị Cẩm T nhờ Nguyễn Ngọc T tiện đường chở ra hẻm 76, đường Xóm Đất, Phường 8, Quận 11 để giải quyết công việc, (thực chất là đi bán ma túy cho người phụ nữ), tuy nhiên Nguyễn Thị Cẩm T chưa kịp bán thì bị phát hiện bắt quả tang cùng vật chứng là 02 gói ma túy đá. Sau đó Công an tiếp tục khám xét nơi ở của bị cáo thu giữ nhiều gói ma túy tại phòng khách và phòng ngủ.

Tại bản Kết luận giám định số 932/KLGĐ-H ngày 26/4/2019 của Phòng Kỹ thuật Công an Thành phố Hồ Chí Minh thể hiện số ma túy thu giữ trong túi xách Nguyễn Thị Cẩm T đeo trên người là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 19,9338 gam loại Methamphetamine; Số ma túy thu giữ tại nơi ở của Nguyễn Thị Cẩm T là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 67,9064 gam loại Methamphetamine.

Xét thấy bị cáo Nguyễn Thị Cẩm T có hành vi bán 19,9338 gam Methamphetamine, ngoài ra bị cáo còn cất giữ 67,9064 gam loại Methamphetamine nhằm mục đích bán lại, nên đã có đủ cơ sở để kết luận bị cáo Nguyễn Thị Cẩm T phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm b khoản 3 Điều 251 của Bộ luật hình sự như Cáo trạng đã truy tố.

Hành vi phạm tội của bị cáo Nguyễn Thị Cẩm T là đặc biệt nghiêm trọng, nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chế độ quản lý độc quyền của Nhà nước đối với các chất ma túy, gây mất trận tự an toàn xã hội, mặt khác nó còn là nguyên nhân làm cho tệ nạn ma túy ngày càng gia tăng, là nguồn gốc phát sinh ra nhiều loại tội phạm khác. Bị cáo biết rõ ma túy là một loại tệ nạn xã hội, hành vi mua bán trái phép chất ma túy bị Nhà nước nghiêm cấm và xã hội quyết liệt lên án bài trừ, nhưng xuất phát từ động cơ tư lợi bị cáo vẫn cố ý phạm tội, chứng tỏ ý thức coi thường pháp luật của bị cáo.

Về nhân thân:

Bị cáo Nguyễn Thị Cẩm T là người có nhân thân xấu, đã có 01 tiền sự: ngày 07/6/2016 bị Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh, Quyết định áp dụng biện pháp xử lý vi phạm hành chính “Đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc” thời hạn 18 tháng về hành vi: “Sử dụng trái phép chất ma túy”, chấp hành xong tháng 8/2018.

Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội và nhân thân của bị cáo Nguyễn Thị Cẩm T, Hội đồng xét xử thấy cần phải xử phạt bị cáo mức án nghiêm khắc, mới có tác dụng răn đe giáo dục đối với bị cáo và đảm bảo công tác phòng ngừa chung trong xã hội.

Xét ý kiến của Luật sư bào chữa cho bị cáo và quan điểm của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy về tội danh, khung hình phạt cũng như tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s khoản 1 Bộ luật hình sự mà Luật sư và đại diện Viện kiểm sát đã nêu, là thống nhất với nhau và có cơ sở, nên chấp nhận. Áp dụng tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo Nguyễn Thị Cẩm T theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Đối với đề nghị của Luật sư về việc áp dụng khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự cho bị cáo, Hội đồng xét xử chấp nhận quan điểm đại diện Viện kiểm sát, không chấp nhận đề nghị của Luật sư vì không có cơ sở.

[3] Đối với Nguyễn Ngọc T là bạn trai Nguyễn Thị Cẩm T khai trong lúc cả hai đi ăn uống, Nguyễn Thị Cẩm T tiện thể nhờ Tùng chở đi giải quyết công việc, Tùng không biết và không liên quan đến việc mua bán ma túy của Nguyễn Thị Cẩm T. Nguyễn Ngọc T khai nhận phù hợp với lời khai của Nguyễn Thị Cẩm T. Bản thân Nguyễn Ngọc T qua xét nghiệm âm tính với ma tuý, mặt khác thân Nguyễn Ngọc T chưa có tiền án tiền sự, nên Cơ quan điều tra không xử lý là có cơ sở.

Đối với các đối tượng tên Thắng, Cu Lì là người bán ma túy cho Nguyễn Thị Cẩm T và các đối tượng nghiện mua ma túy của Nguyễn Thị Cẩm T, do Nguyễn Thị Cẩm T khai không rõ nhân thân lai lịch, nên Cơ quan cảnh sát điều tra không có cơ sở xác minh làm rõ để xử lý.

[4] Về hình phạt bổ sung:

Xét tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo Nguyễn Thị Cẩm T, Hội đồng xét xử thấy cần thiết phải áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[5] Về xử lý vật chứng:

Vật chứng của vụ án gồm có:

+ 06 gói niêm phong số 932/2019 (gói 1,2,3,4,5,6) bên ngoài có chữ ký của Giám định viên Phan Tấn Quốc và cán bộ điều tra Trần Bảo Cường, bên trong là ma túy còn lại sau giám định, là vật cấm lưu hành nên tịch thu tiêu hủy;

Đối với 01 điện thoại di động hiệu Samsung (bể trấy tróc, số imei:…2429/5), bị cáo Nguyễn Thị Cẩm T khai nhận sử dụng liên lạc cá nhân và mua bán ma túy, là công cụ phương tiện dùng vào việc phạm tội, nên tịch thu nộp ngân sách Nhà nước;

Đối với 01 điện thoại di động hiệu Iphone màu trắng (bể lưng nát, có chữ A1387) và 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu đen (model A1332, EMC 380…) Nguyễn Thị Cẩm T khai nhận là điện thoại bị hư, là vật không liên quan đến vụ án, nên trả lại cho Nguyễn Thị Thị Cẩm T;

Đối với 01 túi xách màu cam; 03 hộp quẹt Gas; 01 hộp nhựa màu vàng có chữ Butter Cookies; 01 đoạn ống nhựa vót nhọn một đầu; 01 hộp giấy hình chữ nhật; 01 gói giấy màu xanh; 01 cân điện tử hiệu Marllono; 02 kẹp gắp; 01 cây kéo; 01 hộp giấy màu đen; 01 hộp giấy hình vuông; 04 ống thủy tinh có đầu hình tròn; 01 bình nhựa có gắn ống hút và ống thủy tinh; 60 bịch nylon bên trong không có chứa gì, là vật không có giá trị, nên tịch thu tiêu hủy;

Đối với số tiền Việt Nam 13.500.000 đồng thu giữ của bị cáo Nguyễn Thị Cẩm T, Nguyễn Thị Cẩm T khai là tiền riêng do Nguyễn Ngọc T cho mượn để sắm đồ dùng sinh hoạt không liên quan đến việc mua bán ma túy. Tại phiên tòa, anh Tùng khai nhận cho Nguyễn Thị Cẩm T mượn số tiền trên để mua sắm đồ vào buổi sáng ngày 18/4/2019. Xét thấy không có căn cứ để xác định số tiền trên có liên quan đến vụ án nên trả lại cho bị cáo Nguyễn Thị Cẩm T.

Đối với 01 xe gắn máy hiệu SH, biển số 59T2 – 201.96, số khung: ZDCKF10B0BF110269; số máy: KF08E-1081419-KTGE1, kết quả giám định tại thể hiện xe có số khung số máy không đổi. Qua điều tra xác minh thể hiện xe do ông Phan Thanh T, sinh năm 1984, trú tại 115/50D đường Trần Đình Xu, phường Nguyễn Cư Trinh, Quận 1 đứng tên sở hữu. Ngày 22/9/2018 ông Phan Thanh T làm hợp đồng ủy quyền quyền sử dụng định đoạt xe trên cho ông Hoàng Thế Lâm, sinh năm 1985, trú tại xã Lai Uyên, huyện Bến Cát, tỉnh Bình Dương. Qua xác minh hiện tại ông Hoàng Thế L không còn cư trú tại địa phương, đi đâu không rõ. Nguyễn Thị Cẩm T khai nhận: Qua bạn bè ngoài xã hội, Nguyễn Thị Cẩm T quen biết người tên Hoàng Thế L (không rõ lai lịch) tại khu vực đường Mã Lò, quận Bình Tân, Lâm đã bán chiếc xe hiệu SH, biển số 59T2 – 201.96 nêu trên cho Nguyễn Thị Cẩm T với giá 210.000.000 đồng, nhưng do Nguyễn Thị Cẩm T không có hộ khẩu tại Thành phố Hồ Chí Minh nên chưa thực hiện được việc sang tên chủ xe. Ngày 18/4/2019 trong khi Nguyễn Thị Cẩm T và bạn trai là Nguyễn Ngọc T đi ăn uống, Nguyễn Thị Cẩm T nhờ Nguyễn Ngọc T điều khiển xe trên chở Nguyễn Thị Cẩm T đi sang quận 11 để Nguyễn Thị Cẩm T bán ma túy thì bị Công an bắt quả tang. Cơ quan cảnh sát điều tra Công an Thành phố Hồ Chí Minh đã tiến hành đăng báo tìm chủ sở hữu, nhưng chưa có người đến liên hệ giải quyết.

Xét thấy chiếc xe gắn máy hiệu SH, biển số 59T2 – 201.96, số khung: ZDCKF10B0BF110269; số máy: KF08E-1081419-KTGE1 là công cụ phương tiện dùng vào việc phạm tội, hiện chưa xác định được chủ sở hữu, nên giao cho Cục thi hành án Dân sự Thành phố Hồ Chí Minh tiếp tục thông báo trên các phương tiện thông tin đại chúng trong thời hạn 01 năm, nếu không có chủ sở hữu hợp pháp đến nhận, thì chiếc xe trên được tịch thu nộp ngân sách Nhà nước.

Đối với tài sản thu giữ của Nguyễn Ngọc T bao gồm số tiền 7.000.000 đồng tiền Việt Nam; 01 điện thoại di động hiệu Iphone màu đen, do không có căn cứ để xác định có liên quan đến vụ án, nên trả lại cho ông Nguyễn Ngọc Tùng.

[6] Án phí: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định. Vì các lẽ nêu trên,

QUYẾT ĐỊNH

[1] Về hình phạt:

- Căn cứ vào điểm b khoản 3, khoản 5 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017).

Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Cẩm T 17 (mười bảy) năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù tính từ ngày 18 tháng 4 năm 2019; Phạt bổ sung bị cáo số tiền 10.000.000 (mười triệu) đồng. Tịch thu nộp vào ngân sách Nhà nước.

[2] Về xử lý vật chứng:

Căn cứ vào Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015 (Sửa đổi bổ sung năm 2017); Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

- Tịch thu, tiêu hủy.

+ Gói niêm phong số 932/2019 (gói 1,2,3,4,5,6) bên ngoài có chữ ký của Giám định viên Phan Tấn Quốc và cán bộ điều tra Trần Bảo Cường, bên trong là ma túy còn lại sau giám định;

+ 01 túi xách màu cam; 03 hộp quẹt Gas; 01 hộp nhựa màu vàng có chữ Butter Cookies; 01 đoạn ống nhựa vót nhọn một đầu; 01 hộp giấy hình chữ nhật;

01 gói giấy màu xanh; 01 cân điện tử hiệu Marllono; 02 kẹp giấy; 01 cây kéo; 01 hộp giấy màu đen; 01 hộp giấy hình vuông; 04 ống thủy tinh có đầu hình tròn;

01 bình nhựa có gắn ống hút và ống thủy tinh; 60 bịch nylon bên trong không có chứa gì;

- Tịch thu nộp ngân sách Nhà nước: 01 điện thoại di động hiệu Samsung (bể trấy tróc, số imei:…2429/5).

- Trả cho bị cáo Nguyễn Thị Cẩm T: 01 điện thoại di động hiệu Iphone màu trắng (bể lưng nát, có chữ A1387) và 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu đen (model A1332, EMC 380…) - Trả cho ông Nguyễn Ngọc Tsố tiền 7.000.000 (bảy triệu đồng) tiền Việt Nam; 01 điện thoại di động hiệu Iphone màu đen.

- Trả cho bị cáo Nguyễn Thị Cẩm T số tiền 13.500.000 (mười ba triệu, năm trăm ngàn) đồng tiền Việt Nam, nhưng được tạm giữ lại để đảm bảo thi hành án.

+ Giao cho Cục thi hành án Dân sự Thành phố Hồ Chí Minh tiếp tục thông báo trên các phương tiện thông tin đại chúng trong thời hạn 01 năm, nếu không có chủ sở hữu hợp pháp của chiếc xe hai bánh gắn máy nhãn hiệu Honda, loại SH, biển số 59T2 – 201.96, số khung: ZDCKF10B0BF110269; số máy: KF08E-1081419-KTGE1 đến nhận, thì chiếc xe trên được tịch thu nộp ngân sách Nhà nước.

(Các vật chứng đã nêu hiện đang được lưu giữ tại Cục thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh, theo biên bản giao nhận tang tài vật số 470/19, ngày 25/9/2019 của Cục Thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh. Riêng số tiền 20.500.000 đồng, hiện đang được gửi giữ tại Kho bạc Nhà nước Quận 10 theo giấy nộp tiền vào tài khoản ngày 06/5/2019).

[3] Án phí hình sự sơ thẩm:

Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí và lệ phí tòa án;

Buộc bị cáo Nguyễn Thị Cẩm T nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng). [4] Về quyền kháng cáo:

Căn cứ khoản 1 Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự Bị cáo; người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án, có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

202
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 493/2019/HS-ST ngày 22/11/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:493/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về