TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN PHÙ YÊN, TỈNH SƠN LA
BẢN ÁN 49/2021/HS-ST NGÀY 28/04/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ
Ngày 28/4/2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Phù Yên, tỉnh Sơn La, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 49/2021/TLST-HS ngày 29/3/2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 51/2021/QĐXXST-HS ngày 15/4/2021 đối với bị cáo Đặng Văn V, sinh ngày 08/7/1990, tại xã N, huyện V, tỉnh Y, cư trú tại thôn T, xã N, huyện V, tỉnh Y, nghề nghiệp: Lao động tự do, trình độ văn hóa:9/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam, tôn giáo: Không, quốc tịch: Việt Nam, con ông Đặng Văn B (đã chết) và bà Dương Thị P, chưa có vợ, tiền án: Không, tiền sự: Ngày 03/4/2015 bị Công an huyện V, tỉnh Y xử phạt vi phạm hành chính về hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy;
Ngày 17/02/2016 bị Công an huyện V, tỉnh Y xử phạt vi phạm hành chính về hành vi Sử dụng trái phép chất ma túy; Ngày 18/8/2016 bị Công an huyện V, tỉnh Y xử phạt vi phạm hành chính về hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy;
Ngày 19/9/2016 bị Công an huyện V, tỉnh Y xử phạt vi phạm hành chính về hành vi Sử dụng trái phép chất ma túy; Ngày 15/9/2020 bị UBND xã N, huyện V, tỉnh Y áp dụng biện pháp giáo dục tại xã 03 tháng từ ngày 15/9/2020 đến ngày 15/12/2020, 04 lần bị xử phạt vi phạm hành chính là phạt tiền bị cáo chưa chấp hành Quyết định nào; Nhân thân: Xấu, nghiện ma túy, bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 25/12/2020 đến ngày xét xử, có mặt tại phiên tòa.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Chị Hoàng Thị Thanh H, sinh năm 1992, cư trú tại thôn TH, xã TBL, huyện V, tỉnh Y, có mặt tại phiên tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 10 giờ ngày 25/12/2020 Đặng Văn V đang ở nhà thì có 01 người đàn ông tên S ở huyện Phù Yên, tỉnh Sơn La gọi điện thoại nói “Em có hàng ngon anh có lấy không”, V trả lời là “có”, S và V hẹn gặp nhau tại đèo L thuộc địa phận xã M, huyện Phù Yên, tỉnh Sơn La để mua bán ma túy. Sau khi thống nhất S, Đặng Văn V rủ Hoàng Thị Thanh H đi huyện Phù Yên chơi, H nhất trí và lấy xe máy của mình cho V điều khiển, H ngồi phía sau, khi đến khu vực đèo L thì V bảo H đi vào đường Quốc lộ 37 cũ để đi xem bò, đi đến đoạn đường sạt lở V bảo H xuống xe đợi, V điều khiển xe đến điểm hẹn gặp S và nhận 01 gói ma túy 04 chỉ và đưa cho S 10.000.000đ (Mười triệu đồng), V để gói ma túy vào túi áo khoác đang mặc rồi điều khiển xe đến đón H, trên đường về thì bị tổ công tác của Công an huyện Phù Yên phát hiện, bắt quả tang. Thu giữ 01 gói chất ma túy, 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Sam sung, 01 chiếc xe máy biển kiểm soát 21B1-439.71.
Cùng ngày 25/12/2020 cơ quan CSĐT Công an huyện Phù Yên phối hợp với Viện kiểm sát nhân dân huyện Phù Yên, Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La và sự có mặt của Đặng Văn V mở niêm phong, cân tịnh gói chất bột màu trắng có khối lượng là 18,81 gam, lấy toàn bộ 0,19 gam kí hiệu V1 gửi giám định.
Tại Kết luận giám định số 136 ngày 29/12/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La: Mẫu gửi giám định kí hiệu V1 là ma túy, loại heroine, khối lượng mẫu gửi giám định là 0,19 gam. Tổng khối lượng ma túy thu giữ 18,81gam là heroine. Mẫu vật gửi giám định 0,19 gam, kí hiệu V1 đã xử lý hết trong quá trình giám định.
Cáo trạng số 28/CT-VKS ngày 29/3/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Phù Yên đã truy tố bị can Đặng Văn V về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, theo điểm g khoản 2 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa bị cáo khai: Khoảng 10 giờ ngày 25/12/2020 bị cáo đang ở nhà thì nhận được 01 cuộc điện thoại của 01 người đàn ông mới quen tên là S ở huyện Phù Yên, tỉnh Sơn La nói là“em có hàng ngon, anh có lấy không”, bị cáo trả lời là “có”, S và bị cáo hẹn gặp nhau tại đèo L để mua bán ma túy. Sau khi thống nhất với S, bị cáo đến nhà chi Hoàng Thị Thanh H (bạn gái) rủ đi huyện Phù Yên chơi, chị H nhất trí và đưa xe máy cho bị cáo điều khiển, chị H ngồi phía sau, khi đến đèo L thì bị cáo bảo chị H đi đường Quốc lộ 37 cũ để xem bò luôn, đi đến đoạn đường sạt lở thì bị cáo bảo chị H xuống xe đợi, bị cáo điều khiển xe máy đi qua đoạn đường sạt lở và đến điểm hẹn gặp S trao đổi, mua 04 chỉ ma túy với số tiền 10.000.000đ (Mười triệu đồng), bị cáo để gói ma túy vào túi áo khoác đang mặc rồi điều khiển xe máy đến đón chị H, trên đường về nhà thì bị tổ công tác của Công an huyện Phù Yên phát hiện, bắt quả tang.
Thu giữ của bị cáo 01 gói chất bột màu trắng, 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Sam Sung và 01 chiếc xe máy, biển kiểm soát 21B1- 439.71 của chị Hoàng Thị Thanh H.
Chị Hoàng Thị Thanh H trình bày: Khoảng 10 giờ ngày 25/12/2020 chị đang ở nhà thì thấy bị cáo Đặng Văn V là bạn trai đến rủ đi huyện Phù Yên chơi, chị đồng ý và lấy xe máy của chị cho bị cáo điều khiển, chị ngồi phía sau, đi đến đèo L thì bị cáo rủ chị đi đường QL37 cũ để xem bò vì V chuyên mua bán trâu bò, đi đến đoạn đường sạt lở bị cáo bảo chị xuống xe đợi, bị cáo điều khiển xe đi khoảng 15 phút sau thì quay lại đón chị, hai người về được khoảng 01km thì bị Công an huyện Phù Yên kiểm tra, phát hiện, bắt giữ. Thu giữ 01 gói chất bột màu trắng để trong túi áo khoác bị cáo đang mặc, 01 chiếc điện thoại di động Sam Sung của bị cáo và 01 chiếc xe máy, nhãn hiệu HONDA Wave, biển kiểm soát 21B1-439.71 của chị mua năm 2015, giấy tờ xe đều mang tên chị. Trước và sau khi bị cáo mua ma túy chị hoàn toàn không biết, chị không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo, đề nghị xem xét trả lại chiếc xe cho chị.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Phù Yên, tỉnh Sơn La giữ quyền công tố tại phiên tòa trình bày Luận tội, giữ nguyên quyết định như Cáo trạng đã truy tố đối với bị cáo Đặng Văn V và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm g khoản 2 Điều 249, Điều 38, điểm s khoản 1, 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự.
Xử phạt bị cáo Đặng Văn V từ 07 năm đến 08 năm tù, tính từ ngày bị bắt 25/12/2020 và đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung (tiền) đối với bị cáo.
Về vật chứng: Đề nghị áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự; điểm a, c khoản 2, khoản 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự và đề nghị:
Tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại 18,62 gam, loại heroine, kí hiệu V2, 01 túi nilon màu trắng và 01 chiếc phong bì niêm phong vật chứng;
Chấp nhận Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La đã xử lý hết mẫu gửi giám định 0,19 gam chất ma túy trong quá trình giám định.
Tịch thu phát mại sung công quỹ Nhà nước 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Sam Sung màu xanh của bị cáo dùng liên lạc để mua ma túy.
Trả lại cho chị Hoàng Thị Thanh H 01 chiếc xe máy, nhãn hiệu HONDA, biển kiểm soát 21B1- 439.71.
Về án phí hình sự sơ thẩm: Đề nghị áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Bị cáo phải chịu theo luật định.
Bị cáo tranh luận tại phiên tòa, nhất trí với Cáo trạng và Luận tội của đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên tòa, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét, giảm nhẹ mức hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận thấy:
[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an huyện Phù Yên, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Phù Yên và Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến, khiếu nại, tố cáo về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.
[2]. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Phù Yên, tỉnh Sơn La truy tố bị cáo theo tội danh và điều luật áp dụng là có căn cứ, đúng người, đúng tội.
[3]. Lời khai của bị cáo tại phiên toà phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, kết luận giám định về ma túy, các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ, cả về thời gian, địa điểm phạm tội và vật chứng của vụ án thu được.
[4]. Đối với người đàn ông bán ma túy cho bị cáo, do không biết họ tên đệm, địa chỉ ở đâu, cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Phù Yên đã tiến hành xác minh, điều tra người có đặc điểm, hình dáng như bị cáo mô tả tại xã M và các xã lân cận của huyện Phù Yên, nhưng không có ai có đặc điểm, hình dáng như bị cáo cung cấp. Do đó, không có cơ sở, căn cứ để xử lý đối với người đàn ông đó.
Với những tài liệu, chứng cứ nêu trên, đủ cơ sở khách quan để kết luận: Bị cáo Đặng Văn V, phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý, theo điểm g khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự.
[5]. Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội: Biết rõ hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy là hành vi vi phạm pháp luật, nhưng để thỏa mãn cơn nghiện đã mua ma túy để sử dụng với khối lượng ma túy thuộc trường hợp nghiêm trọng quy định tại điểm g khoản 2 Điều 249 của Bộ luật hình sự có khung hình phạt từ 05 đến 10 năm tù, ngoài mục đích để sử dụng, bị cáo không có mục đích khác.
[6]. Về tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự: Sau khi bị bắt tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên toà bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải là tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51của Bộ luật hình sự, ông nội của bị cáo được tặng Huân chương kháng chiến Hạng Ba, bà nội của bị cáo được truy tặng Danh hiệu Mẹ Việt Nam anh hùng, 01 bác ruột của bị cáo được tặng Huân chương kháng chiến chống Mỹ cứu nước Hạng ba, 01 bác ruột là liệt sỹ hy sinh trong sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ cứu nước và 01 bác ruột hy sinh vì sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc năm 1979, là tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng.
[7]. Về nhân thân của bị cáo: Là đối tượng nghiện ma túy, ngày 28/6/2011 bị Tòa án nhân dân huyện V, tỉnh Y xử phạt 09 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản; Bị Công an huyện V, tỉnh Y xử phạt hành vi vi phạm hành chính 04 lần phạt tiền đều chưa chấp hành Quyết định nào; Ngày 15/9/2020 bị UBND xã N, huyện V, tỉnh Y áp dụng biện pháp giáo dục tại xã 03 tháng từ ngày 15/9/2020 đến ngày 15/12/2020 (đã chấp hành xong nhưng chưa hết thời hiệu).
Xét thấy tình hình tội phạm nói chung và tội phạm về ma tuý nói riêng trên địa bàn huyện Phù Yên vẫn diễn biến phức tạp cả về tính chất và mức độ nguy hiểm, mặc dù đã được các cấp, các ngành từ Trung ương đến địa phương thường xuyên tuyên truyền, vận động nói không với ma tuý, nhưng thực tế vẫn chưa có chuyển biến tích cực, tiềm ẩn phát sinh các hành vi vi phạm pháp luật và tội phạm khác từ các hành vi Tàng trữ, mua bán, vận chuyển trái phép các chất ma túy. Để đảm bảo tính răn đe và phòng ngừa tội phạm, cần xử lý nghiêm, kịp thời đối với hành vi phạm tội của bị cáo.
[8]. Về hình phạt bổ sung: Ngoài hình phạt chính lẽ ra bị cáo còn bị phạt bổ sung (phạt tiền) theo quy định tại khoản 5 Điều 249 của Bộ luật hình sự. Tuy nhiên, quá trình xác minh bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, không có việc làm, không có thu nhập, không có tài sản riêng. Do đó, không áp dụng đối với bị cáo.
[9]. Về áp dụng biện pháp ngăn chặn: Cần tiếp tục tạm giam bị cáo theo quy định tại khoản 1 Điều 329 của Bộ luật tố tụng hình sự để đảm bảo công tác thi hành án hình sự.
[10].Về vật chứng vụ án, cần:
Tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại 18,62 gam, loại heroine, kí hiệu V2, 01 túi nilon màu trắng, 01 chiếc phong bì niêm phong vật chứng và 01 sim điện thoại;
Chấp nhận Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La đã xử lý hết mẫu gửi giám định 0,19 gam chất ma túy trong quá trình giám định.
Tịch thu phát mại sung công quỹ Nhà nước 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Sam Sung màu xanh của bị cáo dùng liên lạc để mua ma túy.
Đối với chiếc xe máy nhãn hiệu HONDA, biển kiểm soát 21B1- 439.71, tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo đều khai là xe của chị Hoàng Thị Thanh H, việc bị cáo sử dụng làm phương tiện đi mua ma túy chị H hoàn toàn không biết, lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp khách quan với lời trình bày của chị H. Do đó, cần trả lại cho chị H là chủ sở hữu hợp pháp về tài sản, theo quy định khoản 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự.
[11]. Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo không thuộc trường hợp được miễn, giảm theo quy định. Do đó, phải chịu theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên.
QUYẾT ĐỊNH
1. Điều luật áp dụng:
Căn cứ điểm g khoản 2 Điều 249, Điều 38, điểm s khoản 1, 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự; Điều 331, 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự.
Căn cứ điểm a, c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự; điểm a, c khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự;
Căn cứ khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14.
2. Tuyên bố bị cáo Đặng Văn V, phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý.
Xử phạt bị cáo Đặng Văn V 08 (Tám) năm tù, tính từ ngày bị bắt 25/12/2020.
Không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với bị cáo.
3. Về vật chứng:
Tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại 18,62 gam, loại heroine, kí hiệu V2, 01 túi nilon màu trắng; 01 chiếc phong bì niêm phong vật chứng và 01 sim điện thoại số 0392335520.
Chấp nhận Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La đã xử lý hết mẫu gửi giám định 0,19 gam chất ma túy trong quá trình giám định.
Tịch thu phát mại sung công quỹ Nhà nước 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Sam Sung màu xanh của bị cáo, số IMEL1: 352812101591133910, số IMEL2: 352812101591133701.
Trả cho chị Hoàng Thị Thanh H 01 chiếc xe máy, nhãn hiệu HONDA, biển kiểm soát 21B1-439.71, màu trắng, đen, bạc, số máy HC12E5738381, số khung 1218DY 738383.
4. Án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng). Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.
Bản án 49/2021/HS-ST ngày 28/04/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý
Số hiệu: | 49/2021/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Phù Yên - Sơn La |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 28/04/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về