TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN LÊ CHÂN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
BẢN ÁN 49/2021/HS-ST NGÀY 06/05/2021 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH
Ngày 06 tháng 5 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 27/2021/TLST- HS ngày 23 tháng 02 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 94/2021/QĐXXST-HS ngày 22 tháng 4 năm 2021 đối với bị cáo:
Nguyễn Thị Hải B, sinh ngày 09 tháng 3 năm 1997 tại Hải Phòng. Đăng ký hộ khẩu thường trú: Khu 9, xã T, huyện T, thành phố Hải Phòng; nơi sinh sống: Số 14/161 T, phường V, quận L, thành phố Hải Phòng; nghề nghiệp: Lao động tự do;
trình độ văn hóa: Lớp 10/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn Ba (đã chết) và bà Đồng Thị Bính; có chồng là Lê Văn Vương (đã ly hôn) và có 02 con, con lớn là Lê Hải An sinh năm 2015, con nhỏ là Lê Hải Long sinh ngày 06/10/2018; tiền án, tiền sự: Không; bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú” từ ngày 07/9/2020 đến ngày 12/01/2021 bị tạm giữ (theo Lênh tạm giữ số 08 ngày 12 tháng 01 năm 2021 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Lê Chân về hành vi Tàng trữ trái phép chất ma Ty); chuyển tạm giam ngày 14/01/2021 (theo Lệnh tạm giam số 04 ngày 14 tháng 01 năm 2021 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Lê Chân về hành vi Tàng trữ trái phép chất ma Ty); có mặt.
- Bị hại: Chị Nguyễn Thanh T, sinh năm 1999. Đăng ký hộ khẩu thường trú: Số 115/44 đường tàu T, phường T, quận L, thành phố Hải Phòng; nơi sinh sống: Số 7/240 T, phường H, quận L, thành phố Hải Phòng; có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Do mâu thuẫn với nhau trên mạng xã hội Facebook, khoảng 23 giờ ngày 21/5/2020, Nguyễn Thanh T và chị gái là Nguyễn Thúy Ngọc cùng bạn là Phạm Thị Lán hẹn gặp Nguyễn Thị Hải B tại quán nước của chị Mai Thị Ánh ( trước cửa nhà số 158 Tô Hiệu, phường Trại Cau, quận Lê Chân, Hải Phòng) để giải quyết mâu thuẫn. B đồng ý và rủ My là bạn bè xã hội (không rõ lai lịch, địa chỉ) đi cùng. Khi đi B mang theo 01 con dao dài khoảng 17cm giấu vào ống tay áo bên phải với mục đích nếu xảy ra đánh nhau thì sẽ đánh lại, B không nói cho My biết mình cầm dao để chuẩn bị cho việc đánh nhau cũng như đi đến chỗ hẹn để đánh nhau. Tại chỗ hẹn (quán nước của chị Ánh) cả 02 nhóm ngồi quây tròn trong quán nói chuyện với nhau. Quá trình nói chuyện T cho rằng B thách thức mình nên đã đứng dậy Tm tóc, đạp vào mặt của B, Ngọc và Lán cũng xông vào dùng tay chân ghế nhựa đánh nhau với B, còn Ngọc dùng tay chân đánh My.
Trong lúc B bị T Tm tóc ấn đầu xuống đấm đá vào vùng mặt thì B rút con dao giấu trong tay áo ra đâm, khua khoắng liên tiếp về phía trước và trúng vùng sườn phải của T, gây thương tích cho T. T bị đâm trúng nhưng vẫn Tm tóc của B kéo làm cả 02 ngã xuống đất. Khi B đứng dậy thì Lán xông vào cầm ghế nhựa đập vào vùng đầu, lưng nhưng không bị thương tích gì.
Thấy B cầm dao đâm T, thì Phan Duy Thảo (là em trai của T và Ngọc) cùng một số nam giới có mặt tại hiện trường xông vào tước dao từ tay của B. Do B nắm chặt dao nên trong lúc bị tước dao B bị thương ở các ngón tay của cả hai bàn tay. Sau đó, cả T và B được đưa đi bệnh viện Việt Tiệp cấp cứu điều trị vết thương.
Sau khi sự việc xảy ra, Nguyễn Thúy Ngọc đến Công an phường Trại Cau trình báo và Thảo đã mang con dao trên giao nộp cho Cơ quan Công an.
Tại Kết luận giám định thương tích số 335/2020/TgT ngày 21/7/2020 của Trung tâm Pháp y Hải Phòng kết luận: Nạn nhân Nguyễn Thanh T bị vết thương hạ sườn phải thấu bụng gây vết thương gan 01cm đã được phẫu thuật thăm dò ổ bụng, vết thương gan đã được cầm máu không phải can thiệp.
- Tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể do vết thương thành bụng hạ sườn phải là 01%;
- Tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể do vết thương nhu mô gan không phải can thiệp, điều trị bảo tồn gây nên là 6%;
- Tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể phải mẫu thuật thăm dò ổ bụng, không phải can thiệp vào vết thương gan do đã cầm máu gây nên là 13%;
Tổng tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể là 19%.
Tại Cơ quan điều tra, Nguyễn Thị Hải B khai nhận như nội dung trên, ngoài ra B khai vết thương ở tay là do sau khi dùng dao đâm T thì một số người vào tước dao từ tay B. Do sợ nên B không buông dao mà dùng hai tay giữ chặt nên bị thương ở ngón tay, không ai gây thương tích cho B, B không yêu cầu giám định thương tích và không đề nghị gì về việc này.
Nguyễn Thanh T (bị hại) cùng Nguyễn Thúy Ngọc và Phạm Thị Lán đã khai nhận tại Cơ quan điều tra như nội dung trên.
Chị Mai Thị Ánh trình bày: Chị chứng kiến 05 nữ giới tham gia đánh nhau tại quán nước của chị, chị không quen biết các nữ giới trên. Trong quá trình đánh nhau, quán của chị không bị thiệt hại gì và một trong các nữ giới đã sử dụng chiếc ghế nhựa màu xanh đã cũ của quán để đánh nhau. Chị không yêu cầu bồi thường và cũng không yêu cầu nhận lại chiếc ghế đã qua sử dụng trên.
Về trách nhiệm dân sự: Tai giai đoạn điều tra bị hại (chị T) yêu cầu bị cáo bồi thường thiệt hại tổng số tiền 70.000.000đồng gồm tiền viện phí; tiền thuốc điều trị tại bệnh viện Việt Tiệp và tiền phục hồi sức khỏe. Song trong giai đoạn chuẩn bị xét xử chị T thay đổi yêu cầu và có đơn đề nghị Tòa án giải quyết: Buộc bị cáo phải bồi thường thiệt hại cho chị tổng số tiền là 40.000.000đồng (Bốn mươi triệu đồng) gồm tiền thuốc men và viện phí, ngoài ra chị T không có yêu cầu gì khác .
Tại Bản cáo trạng số 38/CT-VKS ngày 18 tháng 02 năm 2021, Viện Kiểm sát nhân dân quận Lê Chân truy tố bị cáo Nguyễn Thị Hải B về tội “Cố ý gây thương tích” theo quy định tại điểm đ khoản 2 điều 134 của Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi gây thương tích cho chị Nguyễn Thanh T như nội dung cáo trạng đã nêu.
Bị hai (Nguyễn Thanh T) xác nhận lời khai của bị cáo trình bày tại phiên tòa là đúng. Sau khi bị B dùng dao gây thương tích, chị T phải điều trị vết thương tại bệnh viện Việt Tiệp từ ngày 21/5/2020 đến 01/6/2020. Sau đó vết thương bị tái phát (do dính ruột) chị T lại phải nhập viện để điều trị từ 25/11/2020 đến 28/11/2020. Quá trình chị T điều trị tại bệnh viện, gia đình bị cáo đã đến thăm hỏi và bồi thường cho chị số tiền là 5.000.000đồng (Năm triệu đồng). Nay chị T yêu cầu bị cáo phải bồi thường tiếp số tiền là 40.000.000đồng (Bốn mươi triệu đồng) gồm tiền viện phí và tiền thuốc men (Tổng chi phí hai lần chị T điều trị thương tích tại bênh viện việt Tiệp). Ngoài ra chi T không còn yêu cầu gì khác.
Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân quận Lê Chân giữ quyền công tố tại phiên tòa giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Nguyễn Thị Hải B về tội “Cố ý gây thương tích” theo điểm đ khoản 2 Điều 134 BLHS. Căn cứ vào tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân, các tình tiết giảm nhẹ của bị cáo, Kiểm sát viên đại diện Viện Kiểm sát nhân dân quận Lê Chân đề nghị Hội đồng xét xử:
Về hình phạt: Áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm b, s khoản 1 Điều 51 Điều 51 Bộ luật Hình sự, xử phạt: Nguyễn Thị Hải B mức án từ 42 đến 48 tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích”. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ ngày 12 tháng 01 năm 2021.
Về trách nhiệm dân sự: Bi cáo đã bồi thường cho bị hại số tiền 5.000.000đồng. Nay buộc bị cáo phải bồi thường tiếp chi phí điều trị thương tích cho chị T là 40.000.000đồng (Bốn mươi triệu đồng).
Về xử lý vật chứng: Đề nghị HĐXX tuyên tịch thu tiêu hủy 01 con dao đã qua sử dụng; 01 ghế nhựa màu xanh đã cũ (là công cụ, phương tiện bị cáo sử dụng vào việc phạm tội và không còn giá trị sử dụng).
Căn cứ khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH về án phí lệ phí của Tòa án: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Sau khi nghe đại diện Viện Kiểm sát luận tội, bị cáo không có ý kiến tranh luận gì và tại lời nói sau cùng bị cáo xin được hưởng mức hình phạt thấp nhất.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
- Về tố tụng:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an quận Lê Chân, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về tội danh: Tại phiên tòa bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên. Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra; lời khai bị hại, người làm chứng; phù hợp với Bản kết luận giám định thương tích số 335/2020/TgT ngày 21/7/2020 của Trung tâm Pháp y Hải Phòng; Biên bản xác định hiện trường, sơ đồ hiện trường cùng với các tài liệu, chứng cứ khác thu thập được có trong hồ sơ vụ án vụ án đã được xem xét công khai tại phiên tòa, đủ cơ sở kết luận: Ngày 21/5/2020 bị cáo Nguyễn Thị Hải B đã thực hiện hành vi dùng dao là hung khí nguy hiểm gây thương tích cho chị Nguyễn Thanh T, hậu quả làm chi T tổn hại với tổng tỷ lệ thương tích là 19% sức lao động tại số khu vực trước cửa nhà số 158 Tô Hiệu, phường Trại Cau, quận Lê Chân, Hải Phòng.
[3] Như vậy hành vi của bị cáo thỏa mãn yếu tố cầu thành tội “ cố ý gây thương tích” với tình tiết tăng nặng định khung hình phạt “dùng hung khí nguy hiểm”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 134 Bộ luật Hình sự. Viện Kiểm sát nhân dân quận Lê Chân truy tố bị cáo Nguyễn Thị Hải B về tội danh và điều luật như trên là có căn cứ.
[4] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến sức khỏe của công dân được pháp luật bảo hộ và gây mất trật tự trị an xã hội nên cần xử lý nghiêm.
- Về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
[5] Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo Nguyễn Thị Hải B không có tình tiết tặng nặng trách nhiệm hình sự.
Tuy nhiên, sau khi phạm tội, ngày 12/01/2021 bị cáo bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Lê Chân khởi tố về hành vi “Tàng trữ trái phép chất ma Ty”. Hành vi phạm tội lần này của bị cáo được thực hiện ngày 21/5/2020 (trước khi bị cáo bị khởi tố và xét xử về hành vi Tàng trữ trái phép chất ma Ty), nên lần phạm tội này của bị cáo không bị cói là tái phạm, nhưng thể hiện bị cáo có nhân thân xấu, cần phải xử lý nghiêm, buộc bị cáo phải cách ly khỏi xã hội một thời gian để cải tạo giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.
[6] Về tình tiết giảm nhẹ: Tại giai đoạn điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo. Sau khi sự việc xảy ra bản thân bị cáo tích cực tác động đến gia đình bồi thường, khắc phục một phần hậu quả cho bị hại. Mặt khác nguyên nhân dẫn đến việc phạm tội của bị cáo một phần do lỗi của bị hại. Đây là các tình tiết giảm nhẹ TNHS được quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự, cần xem xét giảm nhẹ cho bị cáo một phần khi quyết định hình phạt.
[7] Về trách nhiệm bồi thường dân sự: Tại phiên tòa, chị T xác nhận bị cáo đã bồi thường cho chị 5.000.000đồng, nay chị yêu cầu bị cáo phải tiếp tục bồi thường tiền thuốc men và viện phí cho chị tổng chi phí là 40.000.000đồng (Bốn mươi triệu đồng) ngoài số tiền 5000.000đồng chị đã nhận. Bị cáo đồng ý và không có ý kiến gì khác. Cần buộc bị cáo phải bồi thường cho chị T số tiền 40.000.000đồng (Bốn mươi triệu đồng) nêu trên.
[8] Về xử lý vật chứng: Đối với 01 con dao đã qua sử dụng (phần lưỡi dao dài khoảng 08cm, cán dao dài khoảng 08cm); 01 ghế nhựa màu xanh đã qua sử dụng, xét đây là công cụ, phương tiện bị cáo sử dụng vào việc phạm tội và không còn giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy.
[9] Đối với Nguyễn Thanh T, Nguyễn Thúy Ngọc và Phạm Thị Lán đã có hành vi tham gia đánh nhau với Nguyễn Thị Hải B và My. Cơ quan Cảnh sát điều tra đã ra quyết định xử phạt hành chính về hành vi đánh nhau trên.
[10] Đối với đối tượng tên My, do chưa xác định được căn cước lai lịch nên Cơ quan Cảnh sát điều tra tiếp tục xác minh, làm rõ xử lý sau.
[11] Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội, bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự, xử phạt: Nguyễn Thị Hải B 42 (Bốn mươi hai) tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích”. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ 12 tháng 01 năm 2021( theo Lênh tạm giữ số 08 ngày 12 tháng 01 năm 2021 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Lê Chân về hành vi Tàng trữ trái phép chất ma Ty).
Về trách nhiệm dân sự: Căn cứ Điều 48 Bộ luật Hình sự; Điều 584 và Điều 590 Bộ luật Dân sự: Buộc bị cáo Nguyễn Thị Hải B phải bồi thường cho chị Nguyễn Thanh T số tiền là 40.000.000đồng (Bốn mươi triệu đồng).
Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật , người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án cho đến khi thi hành xong tất cả các khoản tiền nói trên, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án, theo lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 Bộ luật Dân sự.
Về xử lý vật chứng: Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a,c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng dân sự: Tịch thu tiêu hủy 01 con dao đã qua sử dụng (phần lưỡi dao dài khoảng 08cm, cán dao dài khoảng 08cm); 01 ghế nhựa màu xanh đã qua sử dụng là công cụ, phương tiện bị cáo sử dụng vào việc phạm tội và không còn giá trị sử dụng (là công cụ, phương tiện bị cáo sử dụng vào việc phạm tội và không còn giá trị sử dụng).
(Theo Biên bản giao, nhận vật chứng ngày 22/02/2021 giữa Cơ quan Công an quận Lê Chân và Chi cục Thi hành án dân sự quận Lê Chân).
Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án:
Bị cáo Nguyễn Thị Hải B phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm và 2.000.000đồng (Hai triệu đồng) án phí dân sự sơ thẩm.
Về quyền kháng cáo: Bị cáo, bị hại có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Về quyền yêu cầu thi hành án: Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án 49/2021/HS-ST ngày 06/05/2021 về tội cố ý gây thương tích
Số hiệu: | 49/2021/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận Lê Chân - Hải Phòng |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 06/05/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về