Bản án 49/2021/HNGĐ-ST ngày 22/09/2021 về tranh chấp ly hôn, nuôi con khi ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN LÊ CHÂN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG 

BẢN ÁN 49/2021/HNGĐ-ST NGÀY 22/09/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON KHI LY HÔN 

Ngày 22 tháng 9 năm 2021 tại Trụ sở Tòa án nhân dân quận Lê Chân thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 257/2021/TLST-HNGĐ ngày 26 tháng 7 năm 2021 về tranh chấp ly hôn, nuôi con, khi ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 687/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 25 tháng 8 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số 752/2021/QĐST-HNGĐ ngày 14 tháng 9 năm 2021 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Ngô Thị Vân O, sinh năm 199X; nơi cư trú: Thôn Í, xã N, thành phố Ninh B1, tỉnh Ninh Bình; vắng mặt.

2. Bị đơn: Anh Phạm Quang H, sinh năm 198Y; nơi ĐKHKTT: Đường P, phường N, quận L, Hải Phòng. Hiện đang chấp hành án tại Đội 30, phân trại 1 Trại giam H; địa chỉ: Xã H, huyện T, tỉnh Yên Bái; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 14/7/2021 và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn chị Ngô Thị Vân O trình bày: Chị và anh Phạm Quang H xây dựng gia đình trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại tại UBND phường Dư Hàng Kênh, quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng vào năm 2017, đến nay có một con chung tên là Phạm Hải Anh, sinh ngày 10/12/2017. Quá trình chung sống, vợ chồng không có hạnh phúc và thường xuyên phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do bất đồng trong quan điểm sống, cách sống; hơn nữa anh H có quan hệ bất chính với người phụ nữ khác. Từ đó vợ chồng thường xuyên xảy ra xô sát dẫn đến tình cảm ngày càng xa cách, lạnh nhạt và đã sống ly thân với nhau. Năm 2020, anh H vi phạm pháp luật và bị kết án 12 năm 03 tháng tù về tội "Mua bán trái phép chất ma túy". Hiện anh H đang chấp hành án tại Đội 30 phân trại 1, trại giam Hồng Ca. Trong thời gian anh H chấp hành án chị cũng có đến thăm anh H nhưng tình cảm vợ chồng cũng không cải thiện được. Nay chị O xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, mâu thuẫn đã trầm trọng nên chị đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh H.

Về con chung: Chị O có nguyện vọng được nuôi con chung đến khi thành niên, việc cấp dưỡng nuôi con hai bên tự thỏa thuận.

Về tài sản chung: Vợ chồng không có tài sản chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về án phí: Chị O nhận nộp cả tiền án phí ly hôn sơ thẩm.

Do hoàn cảnh dịch bệnh, đi lại khóa khăn nên chị không đến phiên tòa được nên có đơn xin xét xử vắng mặt.

Quá trình tòa án giải quyết và tại phiên tòa anh H không thể có mặt do đang phải chấp hành án phạt tù nhưng tại bản tự khai ngày 09/8/2021 anh H trình bày: Anh nhất trí với trình bày của chị Trang về điều kiện, hoàn cảnh kết hôn, con chung và tài sản chung. Đến nay anh cho rằng tình cảm vợ chồng không còn vì vậy chị O xin ly hôn, anh đồng ý.

Về con chung: Anh đồng ý giao con chung tên là Phạm Hải Anh, sinh ngày 10/12/2017 cho chị O trực tiếp nuôi dưỡng. Việc cấp dưỡng nuôi con hai bên tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung: Vợ chồng không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Hiện anh đang chấp hành án tại trại giam nên anh không thể đến Tòa án làm việc và tham dự phiên tòa, vì vậy anh có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.

Ý kiến của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa:

Về việc tuân theo pháp luật tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã tuân theo đúng quy định của pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án; nguyên đơn đã chấp hành đúng quy định của Điều 70, 71 Bộ luật Tố tụng dân sự; bị đơn chấp hành chưa đầy đủ theo quy định của Điều 70, 72 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Về việc giải quyết vụ án: Chị O và anh H xây dựng gia đình trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại UBND phường Dư Hàng Kênh, quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng vào năm 2017 và có 01 con chung. Quá trình chung sống, vợ chồng không hạnh phúc và phát sinh nhiều mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do bất đồng trong quan điểm sống, cách sống; hơn nữa anh H có quan hệ bất chính với người phụ nữ khác. Hai bên đã tự sống ly thân nhau . Năm 2020 anh H bị kết án 12 năm 03 tháng tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy. Hiện anh H đang chấp hành án tại Đội 30 phân trại 1, trại giam Hồng Ca. Xét thấy cuộc sống chung của vợ chồng không hạnh phúc, mục đích hôn nhân không đạt được, chị O đã không còn tình cảm với anh H và có đơn xin ly hôn. Vì vậy đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 56, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình xử cho chị O được ly hôn anh H;

Về con chung: Giao con chung của chị O và anh H tên là Phạm Hải Anh, sinh ngày 10/12/2017 cho chị O trực tiếp nuôi dưỡng đến khi thành niên. Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung, hai bên tự thỏa thuận;

Về tài sản chung: Vợ chồng chị O và anh H không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết;

Về án phí: Chị O phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

- Về tố tụng:

[1] Chị Ngô Thị Vân O khởi kiện xin ly hôn anh Phạm Quang H làm phát sinh quan hệ tranh chấp về "ly hôn, nuôi con khi ly hôn". Bị đơn có địa chỉ cư trú tại địa bàn quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng nên căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự; vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng.

[2] Nguyên đơn chị Ngô Thị Vân O có đơn xin xét xử vắng mặt; bị đơn anh Phạm Quang H vắng mặt và có đơn xin xét xử vắng mặt theo quy định tại khoản 1 Điều 227, khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự thì Tòa án tiến hành xét xử theo thủ tục chung.

- Về nội dung vụ án:

[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị Chị Ngô Thị Vân O và anh Phạm Quang H kết hôn trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường Dư Hàng Kênh, quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng vào năm 2017 nên là hôn nhân hợp pháp.

Quá trình chung sống, vợ chồng phát sinh mâu thuẫn do quan điểm sống, lối sống, tính cách không hòa hợp, thường xuyên xảy ra cự cãi, va chạm; hơn nữa anh H có quan hệ bất chính với người phụ nữ khác. Mặc dù gia đình nội ngoại, người thân cùng Tòa án đã khuyên giải để vợ chồng đoàn tụ hạnh phúc nhưng không có kết quả; vợ chồng đã tự sống ly thân từ năm 2018. Hiện anh H đang chấp hành án tại Trại giam Hồng Ca, tỉnh Yên Bái. Tiến hành thu thập chứng cứ xác minh về thực trạng hôn nhân giữa chị O và anh H tại nơi cư trú và gia đình cho thấy: Vợ chồng chị O và anh H sống không hòa thuận, hiện anh H đang chấp hành án tại Trại giam Hồng Ca, chị O không còn tình cảm gì với anh H nữa. Do vậy, việc chị O đề nghị Toà án giải quyết cho chị được ly hôn anh H là có cơ sở nên được chấp nhận.

[3] Xét thấy mâu thuẫn giữa chị O và anh H đã thực sự trầm trọng; cuộc sống chung không thể kéo dài; mục đích hôn nhân không đạt được nên căn cứ vào Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình; cần xử cho chị Ngô Thị Vân O được ly hôn anh Phạm Quang H.

[4] Về con chung: Vợ chồng chị Ngô Thị Vân O và anh Phạm Quang H có 01 con chung tên là Phạm Hải Anh, sinh ngày 10/12/2017. Khi ly hôn, chị O và anh H thống nhất giao con chung cho chị O trực tiếp nuôi dưỡng. Hội đồng xét xử xét thấy: Sự thỏa thuận của chị O và anh H là phù hợp với quy định của pháp luật. Do vậy khi ly hôn cần giao con chung cho chị O trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp với quy định tại các Điều 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình. Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung hai bên tự thoả thuận, không yêu cầu Toà án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Về tài sản chung: Vợ chồng không có tài sản chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[6] Về án phí: Chị O phải nộp án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 56, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình; khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147 khoản 1 Điều 227 khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội.

Tuyên xử:

1. Về hôn nhân: Chị Ngô Thị Vân O được ly hôn với anh Phạm Quang H.

2. Về con chung: Khi ly hôn, giao con chung của chị Ngô Thị Vân O và anh Phạm Quang H tên là Phạm Hải Anh, sinh ngày 10/12/2017 cho chị O trực tiếp nuôi dưỡng đến khi con đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung, hai bên tự thoả thuận, không yêu cầu Toà án giải quyết.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

3. Về án phí: Chị Ngô Thị Vân O phải nộp 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) tiền án phí ly hôn sơ thẩm để sung quỹ Nhà nước. Số tiền này chị O đã nộp đủ tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Lê Chân theo Biên lai thu tiền số 0014475 ngày 26 tháng 7 năm 2021.

4. Về quyền kháng cáo:

Chị Ngô Thị Vân O được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Anh Phạm Quang H được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết

5. Về quyền thi hành án: Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

148
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 49/2021/HNGĐ-ST ngày 22/09/2021 về tranh chấp ly hôn, nuôi con khi ly hôn

Số hiệu:49/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Lê Chân - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 22/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về