TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN PHỤNG HIỆP - TỈNH HẬU GIANG
BẢN ÁN 49/2021/HNGĐ-ST NGÀY 21/05/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN
Ngày 21 tháng 5 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Phụng Hiệp, tỉnh Hậu Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 99/2021/TLST-HNGĐ, ngày 12 tháng 3 năm 2021 về việc “Tranh chấp Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 42/2021/QĐXXST-HN, ngày 13 tháng 4 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên toà số 33/2021/QĐST-HN, ngày 06 tháng 5 năm 2021 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Nguyễn Thị Cẩm C, sinh năm 1981.
Địa chỉ: ấp 4, xã M, huyện H, tỉnh Hậu Giang.
2. Bị đơn: Tô Thanh V, sinh năm 1980.
Địa chỉ: ấp 4, xã M, huyện H, tỉnh Hậu Giang. Nguyên đơn có mặt, bị đơn vắng mặt không lý do.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Trong đơn khởi kiện xin ly hôn và các lời khai trong quá trình giải quyết cũng như tại phiên tòa, nguyên đơn Nguyễn Thị Cẩm C (sau đây gọi chị C) trình bày: giữa chị và bị đơn Tô Thanh V (sau đây gọi anh V) qua tìm hiểu nhau mà tự nguyện quyết định đi đến hôn nhân vào năm 2001, có đăng ký kết hôn. Vợ chồng chung sống phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do chồng chị đi làm ăn xa, lâu lâu mới về nhà một lần và chồng chị còn có tình cảm với người phụ nữ khác bên ngoài, từ đó vợ chồng bất đồng quan điểm sống nên hay cãi vã nhau, nhiều lần hòa giải hàn gắn tình cảm nhưng vẫn không đoàn tụ được, chúng tôi đã sống ly thân từ năm 2013, Do cuộc sống chung không hạnh phúc, chị C khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết:
-Về hôn nhân: xin ly hôn với anh V.
-Về con chung: có hai người con tên Tô Thị Nhật Vy (nữ), sinh ngày 11 tháng 6 năm 2002 (đã trưởng thành) và cháu Tô Thị Cẩm Y (nữ), sinh ngày 22 tháng 7 năm 2007, từ khi ly thân thì con chung sống với chị, khi ly hôn, chị C yêu cầu được nuôi con, chưa yêu cầu anh Vũ cấp dưỡng.
-Về nợ và tài sản chung: tự thỏa thuận, không yêu cầu giải quyết.
Quá trình tố tụng bị đơn Tô Thanh V thừa nhận lời trình bày của nguyên đơn về quan hệ hôn nhân, thời gian ly thân, con chung. Về nguyên nhân mẫu thuẫn không có gì lớn, anh không có tình cảm với người phụ nữ khác như vợ trình bày, do còn thương vợ con nên chưa đồng ý ly hôn. Giả sử phải ly hôn, con chung muốn sống với ai thì người đó nuôi dưỡng, người còn lại chưa cấp dưỡng. Về nợ và tài sản chung: tự thỏa thuận, không yêu cầu giải quyết.
Tại bản tự khai ngày 05 tháng 4 năm 2021, cháu Tô Thị Cẩm Y trình bày (có sự chứng kiến chị C): khi cha mẹ cháu ly hôn, cháu có nguyện vọng được sống với mẹ.
Kiểm sát viên tham gia phiên tòa phát biểu: về thủ tục tố tụng: Tòa án, Hội đồng xét xử và Thư ký đã tuân thủ đầy đủ theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự kể từ khi thụ lý vụ án đến trước khi nghị án. Về nội dung, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện xin ly hôn của nguyên đơn: cho ly hôn; giao con chung cho nguyên đơn nuôi, bị đơn chưa cấp dưỡng; về nợ và tài sản chung, không yêu cầu nên không xem xét.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Tranh chấp giữa các đương sự là tranh chấp ly hôn được qui định tại khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35 và khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Phụng Hiệp, tỉnh Hậu Giang.
[2] Về thủ tục tố tụng: Anh Tô Thanh V được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai, vắng mặt không lý do nhưng không vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan; căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự; Hội đồng xét xử mở phiên tòa xét xử vắng mặt đối với anh V.
[3] Xét về quan hệ hôn nhân: chị C và anh V qua tìm hiểu nhau, tự nguyện tiến tới đời sống hôn nhân vào năm 2001, có đăng ký kết hôn ngày 25 tháng 4 năm 2002 tại Ủy ban nhân dân xã Hòa An, huyện Phụng Hiệp, tỉnh Hậu Giang, nên hôn nhân của anh chị là hợp pháp và được pháp luật thừa nhận.
[4] Xét yêu cầu xin ly hôn của chị C: chị và anh V trong thời gian chung sống có phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do anh Vũ thường xuyên đi làm xa nhà nên không có sự quan tâm, chia sẻ trong gia đình, từ đó bất đồng quan điểm trong cuộc sống nhưng không tìm được giải pháp khắc phục để hoà giải hàn gắn tình cảm mà chọn cách sống ly thân; xét thấy thời gian ly thân đã lâu thì tự ai người đó sống, không ai quan tâm, lo lắng cho ai. Trong quá trình giải quyết, anh V chưa đống ý ly hôn nhưng không đưa ra được giải pháp để đoàn tụ. Đồng thời, anh V cũng không có mặt tại phiên tòa, chứng tỏ rằng anh không còn quan tâm đến cuộc hôn nhân này. Trong khi, tại phiên tòa chị C xác định không còn tình cảm vợ chồng với anh V và cương quyết xin ly hôn; từ đó thấy rằng hôn nhân giữa hai người đã thật sự lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được; căn cứ Điều 56 Luật hôn nhân gia đình có cơ sở chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị C.
[5] Về con chung: có hai người con chung, có một người con đã trưởng thành, người còn lại là cháu Cẩm Y được sống với chị C từ khi ly thân, chị C có yêu cầu được nuôi cháu, yêu cầu này phù hợp với nguyện vọng của cháu Cẩm Yên, từ đó đủ căn cứ giao cháu Cẩm Y cho chị C được trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi cháu đủ 18 tuổi hoặc khi chị C, anh V có yêu cầu khác.
[6] Về nghĩa vụ cấp dưỡng: chị C chưa ai yêu cầu cấp dưỡng nên không đặt ra xem xét. Dành quyền thăm nom, chăm sóc và giáo dục con chung cho anh anh Vũ mà không ai có quyền cản trở.
[7] Về tài sản và nợ chung: không yêu cầu nên không xem xét.
[8] Về án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm: nguyên đơn phải nộp theo quy định pháp luật.
Xét lời đề nghị của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa có căn cứ chấp nhận. Các đương sự được quyền kháng cáo theo luật định.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Áp dụng khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147, Điều 227 Bộ Luật Tố tụng dân sự. Các Điều 51, 53, 56, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình.
Tuyên xử:
1. Về hôn nhân: cho ly hôn giữa chị Nguyễn Thị Cẩm C và anh Tô Thanh V.
2. Về nuôi con chung: giao cháu Tô Thị Cẩm Y (nữ), sinh ngày 22 tháng 7 năm 2007 cho chị Nguyễn Thị Cẩm C được trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi cháu đủ 18 tuổi hoặc khi anh V, chị C có yêu cầu khác.
Anh Tô Thanh V chưa phải cấp dưỡng nuôi con. Dành quyền thăm nom, chăm sóc và giáo dục con chung cho anh anh Tô Thanh V mà không ai có quyền cản trở.
3. Về tài sản và nợ chung: không yêu cầu, không xem xét
4. Về án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm: chị Nguyễn Thị Cẩm C phải nộp 300.000đ (ba trăm ngàn đồng) nhưng được khấu trừ từ 300.000đ (ba trăm ngàn đồng) đã nộp tạm ứng án phí theo biên lai thu số 0008676, ngày 12 tháng 3 năm 2021 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Phụng Hiệp, tỉnh Hậu Giang thành án phí, không phải nộp thêm.
Trường hợp quyết định này được thi hành theo Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ./.
Bản án 49/2021/HNGĐ-ST ngày 21/05/2021 về tranh chấp ly hôn
Số hiệu: | 49/2021/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Phụng Hiệp - Hậu Giang |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 21/05/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về