Bản án 49/2021/HNGĐ-ST ngày 15/04/2021 về ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH HẢI DƯƠNG

BẢN ÁN 49/2021/HNGĐ-ST NGÀY 15/04/2021 VỀ LY HÔN

Ngày 15 tháng 4 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số 190/2020/TLST- HNGĐ ngày 02 tháng 11 năm 2020, về việc “Ly hôn”. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 32/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 11 tháng 3 năm 2021; Quyết định hoãn phiên tòa số 31/2021/QĐST-HNGĐ ngày 29 tháng 3 năm 2021, giữa:

1. Nguyên đơn: Anh Vũ Văn Đ, sinh năm 1971.

ĐKHKTT và chỗ ở hiện nay: Xóm , thôn A, xã Th, huyện Th, tỉnh Hải Dương. Vắng mặt và có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.

2. Bị đơn: Chị Phạm Thị Kh, sinh năm 1972.

Địa chỉ trước khi xuất cảnh: Xóm , thôn A, xã Th, huyện Th, tỉnh Hải Dương. Hiện đang cư trú tại: Đài Loan (Trung Quốc).

Người đại diện theo ủy quyền của chị Kh về việc giao nhận các văn bản tố tụng của Tòa án: Anh Vũ Duy Q (con anh Đ, chị Kh), sinh ngày 30/3/1993. ĐKHKTT và chỗ ở hiện nay: Xóm , thôn A, xã Th, huyện Th, tỉnh Hải Dương.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, bản tự khai và trong quá trình giải quyết vụ án, Nguyên đơn anh Vũ Văn Đ trình bày: Anh và chị Phạm Thị Kh kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã Th, huyện N, tỉnh Hải Hưng (nay là huyện Th, tỉnh Hải Dương) vào ngày 24/9/1992. Vợ chồng chung sống đến năm 2003 thì chị Kh đi xuất khẩu lao động tại Đài Loan (Trung Quốc). Năm 2018, chị Kh về nước nhưng không quan tâm gì đến anh. Anh động viên chị ở nhà làm ăn và chăm lo cho con, cháu nhưng chị không nghe lại tiếp tục đi nước ngoài lao động. Từ đó, chị không liên lạc và quan tâm tới anh. Vợ chồng sống ly thân từ lâu nên anh xác định tình cảm vợ chồng không còn, đề nghị Tòa án giải quyết cho anh được ly hôn chị Kh.

Về con chung: Vợ chồng có 02 con chung là Vũ Duy Q, sinh ngày 30/3/1993 đã trưởng thành và Vũ Văn T, sinh ngày 21/7/1995 (chết năm 2018) nên anh không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung, nợ chung: Anh không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại đơn yêu cầu phân chia tài sản chung và đơn ủy quyền của chị Kh gửi về do anh Q cung cấp cho Tòa án nhưng chưa được cơ quan có thẩm quyền xác nhận, chị Kh trình bày: Quá trình chung sống vợ chồng có nhiều mâu thuẫn, nguyên nhân là do anh Đ không chung thủy với chị, không tôn trọng chị, xúc phạm và đánh chị, chị đã đề cập đến việc ly hôn nhưng anh Đ không nhất trí. Nay chị được gia đình thông báo về việc anh Đ làm đơn xin ly hôn, tuy nhiên do dịch bệnh Covid chị thông thể về nước được, chị ủy quyền cho con trai chị là cháu Vũ Duy Q thay mặt chị giao nộp các tài liệu với Tòa án. Chị nhất trí việc anh Đ làm đơn đề nghị giải quyết ly hôn và yêu cầu Tòa án phân chia tài sản chung vợ chồng là các công trình nhà cửa; công trình phụ xây trên diện tích đất của bố mẹ chồng cho.

Tại lời khai của ông Phạm Văn H và bà Nguyễn Thị B (là bố, mẹ đẻ chị Kh) xác định: Ông, bà không biết địa chỉ cụ thể của chị Kh ở nước ngoài nên không cung cấp được cho Tòa án. Tuy nhiên chị Kh vẫn thường xuyên liên lạc với gia đình qua điện thoại. Ông, bà đồng ý nhận các văn bản tố tụng của Tòa án và có trách nhiệm thông báo cho chị Kh biết để chị Kh trình bày quan điểm đối với yêu cầu ly hôn của anh Đ. Nay chị Kh có quan điểm nhất trí ly hôn và không yêu cầu Tòa án giải quyết việc phân chia tài sản chung vợ chồng. Sau này về nước, chị Kh sẽ trực tiếp nộp đơn và yêu cầu Tòa án giải quyết bằng vụ án khác. Quan điểm của ông H, bà B đề nghị Tòa án giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật.

Tại biên bản lấy lời khai của anh Vũ Duy Q trình bày: Mẹ anh là bà Phạm Thị Kh trước đây ở số nhà 123, đường T, khu H, thành phố Đ, Đài Loan (Trung Quốc) nhưng hiện nay đã chuyển sang chỗ ở mới, địa chỉ cụ thể thế nào anh Q không biết nên không cung cấp được cho Tòa án. Bà Kh vẫn thường xuyên liên lạc về nhà cho anh và gia đình. Sau khi nhận được văn bản tố tụng của Tòa án, anh Q đã thông báo cho bà Kh biết. Bà Kh xác định mâu thuẫn vợ chồng giữa bà và ông Đ không thể hàn gắn và không thể đoàn tụ được nên nhất trí ly hôn và yêu cầu chia tài sản chung nhưng sau đó bà Kh lại không yêu cầu Tòa án giải quyết về tài sản, mà để sau này về nước trực tiếp đề nghị Tòa án giải quyết bằng vụ án khác.

Tòa án xác minh tại khu dân cư và chính quyền địa phương nơi anh Đ, chị Kh đăng ký kết hôn và sinh sống thể hiện: Trong cuộc sống vợ chồng có xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân là do chị Kh đi nước ngoài đã lâu không có ý định về nước, anh Đ chờ đợi đã lâu mà chị Kh không có ý định trở về đoàn tụ cùng anh Đ. Nay anh Đ có đơn xin ly hôn, địa phương đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) tỉnh Hải Dương phát biểu quan điểm: Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét xử (HĐXX) và các đương sự đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự (BLTTDS). Về việc giải quyết vụ án. Đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình; Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu án phí, lệ phí Tòa án. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho anh Vũ Văn Đ ly hôn chị Phạm Thị Kh. Về án phí: Anh Vũ Văn Đ phải chịu 300.000đ án phí sơ thẩm dân sự (Hôn nhân và gia đình).

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và xem xét ý kiến của các đương sự, quan điểm đại diện Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về tố tụng: Nguyên đơn anh Vũ Văn Đ sinh sống ở Việt Nam, bị đơn chị Phạm Thị Kh có nơi cư trú cuối cùng trước khi xuất cảnh tại Xóm 3, thôn A, xã Th, huyện Th, tỉnh Hải Dương, hiện chị Kh đang lao động tại Đài Loan, không rõ địa chỉ cụ thể. Do vậy, Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương thụ lý, giải quyết là đúng thẩm quyền. Trong quá trình giải quyết vụ án, anh Đoàn không cung cấp được địa chỉ cụ thể của chị Kh ở nước ngoài. Tòa án đã nhiều lần yêu cầu gia đình chị Kh cung cấp địa chỉ, gia đình đã cung cấp địa chỉ của chị Kh là: Số nhà 123, đường T, khu H, thành phố Đ, Đài Loan nhưng sau đó chị Kh chuyển địa chỉ khác, gia đình không cung cấp được địa chỉ mới. Tòa án cũng tống đạt các văn bản tố tụng cho người thân trong gia đình chị Kh để thông báo về việc giải quyết vụ án ly hôn giữa anh Đ và chị Kh, đồng thời tiến hành niêm yết các văn bản tố tụng theo quy định của pháp luật. Gia đình ông H và anh Q vẫn thường xuyên liên lạc với chị Kh và đã thông báo việc Tòa án đang giải quyết vụ án ly hôn giữa anh Đ và chị Kh. Tuy nhiên chị Kh vắng mặt lần thứ hai. Anh Đ vắng mặt và có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Do vậy, căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự theo quy định của pháp luật.

[2]. Về nội dung:

[2.1] Về quan hệ hôn nhân: Anh Vũ Văn Đ và chị Phạm Thị Kh kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã Th, huyện N, tỉnh Hải Hưng (nay là huyện Th, tỉnh Hải Dương) vào ngày 24/9/1992 nên là hôn nhân hợp pháp. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống hạnh phúc đến năm 2003 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do chị Kh đi lao động nước ngoài trong thời gian dài, vợ chồng không có sự thương yêu, chia sẻ, không có sự tin tưởng lẫn nhau, không liên lạc, không quan tâm đến nhau. Thông qua gia đình, chị Kh thông tin và xác định tình cảm vợ chồng không còn nên nhất trí ly hôn. HĐXX xét thấy mâu thuẫn vợ chồng giữa anh Đ và chị Kh đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được và được chứng minh qua lời khai của các đương sự, đại diện gia đình, chính quyền địa phương. Do vậy, chấp nhận yêu cầu khởi kiện, xử cho anh Đ ly hôn chị Kh là phù hợp với quy định tại Điều 51 và 56 Luật Hôn nhân và gia đình.

[2.2] Về quan hệ nuôi con: Anh Vũ Văn Đ và chị Phạm Thị Kh có hai con chung là Vũ Duy Q, sinh ngày 30/3/1993 hiện đã thành niên và Vũ Văn T, sinh ngày 21/7/1995 (đã chết). Nay anh Đ, chị Kh không yêu cầu giải quyết nên HĐXX không xem xét giải quyết.

[2.3] Về tài sản chung, nợ chung: Ngày 26/11/2020 và ngày 01/12/2020 chị Kh có đơn yêu cầu về phần giải quyết phân chia tài sản chung khi ly hôn; Đơn ủy quyền ngày 26/11/2020 gửi cho Tòa án. Tuy nhiên các tài liệu này chưa được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền xác nhận. Sau đó, thông qua gia đình chị Kh có quan điểm không yêu cầu Tòa án giải quyết phân chia tài sản chung vợ chồng, sau này về nước chị sẽ trực tiếp đề nghị giải quyết bằng vụ án khác. Anh Đ cũng không yêu cầu Tòa án phân chia tài sản chung. Do vậy, Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết. Các đương sự có quyền khởi kiện tại Tòa án có thẩm quyền để yêu cầu giải quyết chia tài sản chung sau khi ly hôn (nếu có) theo quy định của pháp luật.

[3]. Về án phí: Nguyên đơn anh Vũ Văn Đ phải chịu án phí dân sự sơ thẩm (về Hôn nhân gia đình) theo quy định tại Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự, điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì những lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng các Điều 51; 56 Luật Hôn nhân và gia đình; Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho anh Vũ Văn Đ ly hôn chị Phạm Thị Kh.

2. Về án phí: Anh Vũ Văn Đ phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm (về Hôn nhân gia đình) và được đối trừ số tiền tạm ứng án phí 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) đã nộp theo biên lai thu số AA/2018/0004753 ngày 30 tháng 10 năm 2020 tại Cục thi hành án dân sự tỉnh Hải Dương.

3. Về quyền kháng cáo: Anh Vũ Văn Đ được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Chị Phạm Thị Kh được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật./. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

192
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 49/2021/HNGĐ-ST ngày 15/04/2021 về ly hôn

Số hiệu:49/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hải Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 15/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về